Về tác giả
Về tác phẩm
------------Bài khác
TÌM HIỂU BÀI “VIỆT BẮC” CỦA TỐ HỮU
MỤC TIÊU :
- Cảm nhận  được một thời kháng chiến gian khổ mà anh hùng, nhất là nghĩa tình gắn  bó thắm thiết của những người kháng chiến với Việt Bắc, với nhân dân,  đất nước
- Nghệ thuật bài thơ đậm đà tính dân tộc, làm dạt dào thêm tình yêu quê hương đất nước trong tâm hồn mỗi người Việt Nam.
I/Tìm hiểu chung
1/ Hoàn cảnh và mục đích sáng tác
-  Tháng 10/1954, Trung ương Đảng, Chính phủ về tiếp quản thủ đô Hà Nội.  Tố Hữu đã từng gắn bó với Việt Bắc trong suốt những năm kháng chiến. Nhà  thơ đã viết bài thơ này.
- Một trang sử mới của đất nước, một  giai đoạn mới của cách mạng mở ra. Tố Hữu viết bài thơ này với xúc cảm  của anh cán bộ kháng chiến.
+ Bài thơ nhằm tổng kết, tái hiện lại  giai đoạn gian khổ, vẻ vang của cách mạng và kháng chiến ở chiến khu  Việt Bắc, nó trở thành kỉ niệm khắc sâu lòng người.
+ Bài thơ là khúc ca hùng tráng về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến, đồng thời thể hiện tình cảm ân nghĩa thuỷ chung.
+ Bài thơ còn thể hiện những dự cảm, mong ước về tương lai giữa miền xuôi và miền ngược.
-  Đoạn trích SGK nằm trong phần đầu của bài thơ. Nửa sau của bài thơ chủ  yếu nói về hẹn ước, tương lai giữa miền xuôi và miền ngược.
2/. Kết cầu của bài thơ
-  Kết cấu là thuật ngữ chỉ nội dung và hình thức của một tác phẩm văn học  (thơ, văn). Những biểu hiện bên ngoài là hình thức bên trong là nội  dung.
- Bài thơ có kết cấu theo lối đối đáp của ca dao trữ tình.  Thực chất nó là lối độc thoại, đắm mình trong hoài niệm ngọt ngào về quá  khứ. Nó nêu bật tình nghĩa thắm thiết của con người với cách mạng và  kháng chiến. Nó còn là khát vọng về tương lai và nhiều dự cảm mới mẻ.
-  Lời đối đáp giữa mình, ta, kẻ ở người đi chỉ là sự phân thân của nhân  vật trữ tình, chỉ là cách để tâm trạng bộc lộ đầy đủ hơn trong hô ứng,  đồng vọng giữa hai con người tưởng tượng.
- Bài thơ chia làm 2  phần. Đoạn trích thuộc phần đầu ôn lại những kỉ niệm đầy nghĩa tình sâu  nặng của con người. Đó là tình cảm của anh cán bộ kháng chiến đối với  thiên nhiên và con người Việt Bắc, tình cảm của Việt Bắc đối với cách  mạng và kháng chiến.
3/. Cảm xúc chủ đạo của đoạn trích
- Cảm xúc chủ đạo là tình cảm của nhân vật trữ tình
Đoạn  trích bộc lộ nỗi nhớ thương da diết của anh cán bộ kháng chiến với  thiên nhiên và con người Việt Bắc. Đồng thời là khúc ca hùng tráng về  cuộc kháng chiến. Tình cảm ấy đọng lại niềm tin vào Đảng, vào Bác Hồ.
II. Đọc hiểu văn bản
1. Cuộc chia tay
- Nhà thơ tạo ra lời đối đáp giữa kẻ ở người đi
+ Việt Bắc hỏi:
Mình về có nhớ ta chăng
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn
+ Anh cán bộ kháng chiến trả lời:
“Tiến ai… hôm nay”
- Sử dụng từ ngữ diễn tả trong tình yêu đôi lứa, vợ chồng
+ Mình (trở đi trở lại)
+ Ta
-  Bằng âm điệu ngọt ngào như lời ru trong thể thơ lục bát. Ba biện pháp  nghệ thuật trên đây đã đưa người đọc vào thế giới tâm tình đầy ân nghĩa,  trải dài trong không gian, thời gian tâm tưởng.
- Lời của Việt  Bắc lên tiếng trước. Đây là thể hiện sự nhạy cảm về tâm hồn trước hoàn  cảnh đổi thay. Việt Bắc hỏi về thời gian “mười lăm năm ấy”, hỏi về không  gian “nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”. Hỏi về không gian và thời  gian thường gợi kỉ niệm vừa gắn bó vừa sâu nặng. Nó chứng tỏ người dân  Việt Bắc sống gần gủi với thiên nhiên, với những gì rất cụ thể.
Lời  hỏi của Việt Bắc đã khơi dậy bao kỉ niệm, khơi nguồn cho nỗi nhớ. Không  gian và thời gian cụ thể “mười lăm năm” bỗng trở thành không gian và  thời gian tâm tưởng.
- Lời anh cán bộ kháng chiến. Chia tay với  Việt Bắc, anh cán bộ kháng chiến thấy lòng mình bâng khuâng, xao xuyến.  Hàng loạt những từ ngữ gợi tâm trạng: “bâng khuâng”, “bồn chồn”, “tha  thiết”. Anh cất lên lời đáp. Lời đáp lại như một câu hỏi “Tiếng ai tha  thiết bên cồn”. Biết rồi đấy mà vẫn hỏi. Một tiếng ai gợi ra sự gắn bó  của người trong cuộc. Nó như lời giả từ của một người yêu với một người  yêu. Hình ảnh “áo chàm” được lấy làm hoán dụ để chỉ người có áo, “áo  chàm” màu áo không bao giờ phai nhạt ấy lại là biểu tượng cho tấm lòng  son sắt thuỷ chung của đồng bào các dân tộc Việt Bắc với cách mạng và  kháng chiến. Cảm động nhất vẫn là hình ảnh “cầm tay nhau biết nói gì hôm  nay”. Cuộc chia tay không nói nên lời. Nó lưu luyến bịn rịn.Ta cũng  chẳng nghe tiếng họ nói những gì với nhau. Chỉ có đôi bàn tay nắm lấy  bàn tay và nói giùm tất cả.
Tạo ra sự đối đáp, nhà thơ đã dàn  dựng được cảnh chia tay. Nhưng đó chỉ là hình thức kết cấu bên ngoài,  còn ở chiều sâu chính là sự thống nhất của tình cảm trong tiếng nói  chung.
- Đó là cách sử dụng ngôn ngữ diễn tả cuộc chia tay.
Nhà thơ sử dụng rất sáng tạo đại từ “mình”
+  “Mình” chỉ bản thân người nói (ngôi thứ nhất) nhưng ở văn cảnh này  “mình” còn chỉ đối tượng giao tiếp. Một đối tượng gần gũi, gắn bó, thân  thiết, người bạn đời yêu mến. “Mình” đã chuyển sang ngôi thứ 2 nhằm diễn  tả quan hệ tình yêu đôi lứa, tình vợ chồng. “Mình” được dùng ở nghĩa  thứ hai (đối tượng trực tiếp trò chuyện). Nó góp phần tạo ra mối quan hệ  gắn bó giữa hai người – Anh cán bộ kháng chiến và đồng bào các dân tộc  Việt Bắc. Ngôn ngữ vừa giản dị, mộc mạc diễn tả tình cảm chân thật, cuộc  chia tay bịn rịn, lưu luyến đến bâng khuâng.
- Để diễn tả cuộc  chia tay đầy lưu luyến, nhà thơ sử dụng câu thơ lục bát cân xứng, nhịp  nhàng phù hợp với tâm trạng bâng khuâng của con người trong cuộc tiễn  đưa:
- Mình về / mình có / nhớ chăng
Mười lăm năm ấy / thiết tha mặn nồng
Mình về / mình có / nhớ không
Nhìn cây nhớ núi / nhìn sông nhớ nguồn
- Tiếng ai / tha thiết / bên cồn
Bâng khuâng trong dạ / bồn chồn bước đi
Áo chàm / đưa buổi / phân li
Cầm tay nhau biết / nói gì hôm nay.
Sự  ngắt nhịp ấy chính là nhịp điệu tâm hồn. Nó tạo ra sự cộng hưởng, đồng  vọng của cả người ở, người đi. Đó là nỗi nhớ da diểt, mênh mang với  thiên nhiên, con người, với cách mạng và kháng chiến. 
2. Nỗi nhớ da diết về thiên nhiên con người Việt Bắc
- Trong đoạn trích có hơn 30 từ “nhớ” (cụ thể là 35 từ)
- Tác dụng của việc lặp lại nhiều lần từ “nhớ”.
+ Về tâm lí, một hiện tượng, một âm thanh, một từ xuất hiện nhiều lần trước mắt ta, buộc ta phải chú ý.
+  Về ý nghĩa “nhớ” gắn liền với đối tượng cụ thể. Nó khắc sâu trong tâm  trạng người đọc, người nghe về sắc thái tình cảm của con người. Khi diễn  tả nỗi nhớ của anh cán bộ kháng chiến, khi là sự đồng vọng cùng nhớ về  sự kiện cách mạng, kháng chiến. Nỗi nhớ mang nhiều cung bậc.
- Đặc sắc của đoạn thơ là ở chỗ Tố Hữu tạo ra lối đối đáp trong tưởng tượng. Nhà thơ để Việt Bắc hỏi:
+ Mình đi, có nhớ?
+ Mình về, có nhớ?
Mỗi cụm từ ấy xuất hiện tới ba lần. Nó xoáy sâu vào lòng người, gợi nỗi nhớ như dòng chảy. Thiên nhiên Việt Bắc hiện ra:
“Trám bùi”, “măng mai”
+ Những mái nhà “hắt hiu lau xám”
+ Những địa danh cụ thể: “Tân Trào”, “Hồng Thái”
+ Những di tích lịch sử “mái đình, cây đa”
Ba  tiếng “mình” trong một câu thơ mang lại cách hiểu khác nhau. Theo cách  hiểu thông thường mình (1), mình (2) chỉ người ra đi. Mình (3) chỉ người  ở lại. Nhưng cũng có cách hiểu mình (1), mình (2), mình (3) chỉ là một  đối tượng: người ra đi. Người ra đi tự hỏi mình, tự đối thoại với mình  để đừng bao giờ quên Việt Bắc. Cũng có thể người ở lại nhắc người ra đi  đừng có quên những ngày tháng, đừng quên chính mình, đánh mất mình. Thơ  như thế thật dung dị mà sâu sắc.
Đáp lại sự khẳng định:
Ta với mình, mình với ta
Mình ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu
Cũng  là ba tiếng “mình”. Mình (1) và (2) chỉ người ra đi. Mình (3) chỉ người  ở lại. Tiếng gọi ấy gần gũi, thân thiết quá. Ta nghe như người yêu nói  với người yêu, tiếng của người bạn đời yêu dấu, tiếng của vợ, của chồng.  Nhưng ba tiếng “mình” ấy cũng để chỉ người ra đi. Lời hứa trở nên mặn  mà, đinh ninh, sâu sắc. Nhân vật trữ tình tự phân thân, lại hoà làm một  xoáy sâu vào tiếng nói của tâm trạng để tìm sự đồng vọng của người đọc  người nghe.
- Đó là đoạn thơ:
Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
….
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung
-  Thiên nhiên thật tươi tắn “Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi”. Thiên nhiên  mang vẻ đẹp riêng của Việt Bắc “Mùa xuân mơ nở trắng rừng” không ở đâu  có được. Không chỉ có ở màu sắc đường nét mà cả âm vang sôi động: “ve  kêu rừng phách đổ vàng”.
- Cái hay, cái đẹp của đoạn thơ là sự kết hợp đến dung dị, cứ một câu tả về thiên nhiên là một câu nói về con người.
+ “Đèo cao ánh nắng dao gài thắt lưng”: Con người thật bình dị, khoẻ khoắn trong lao động. Đến những câu:
+ “Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”
+ “Nhớ cô em gái hái măng một mình”
Con  người cần mẫn trong công việc. Con người Việt Bắc thật vui, thật tươi  sung sướng đón nhận cuộc sống hoà bình, không có tiếng súng, hạnh phúc  đã trở về với họ “Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung”
- Đoạn thơ  hay và tiêu biểu khi nhớ về thiên nhiên và con người Việt Bắc. Thiên  nhiên làm nền để bức chân dung phác thảo về con người hiện lên mồn một.  Con người gần gũi với thiên nhiên, bình dị như thiên nhiên.
- Nhớ về những con người lam lũ nghèo khổ:
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Tấm lưng người mẹ nghèo miền núi đã đi vào thơ không chỉ một mà nhiều người:
Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi
Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ
(Nguyễn Khoa Điềm - Tiếng hát những em bé lớn trên lưng mẹ)
Buổi chiều mẹ lên rẫy
Thấy bóng cây Kơ nia
Bóng tròn che lưng mẹ
Về nhớ anh mẹ khóc
(Bóng cây Kơ nia-Ngọc Anh phỏng dịch theo điệu Ka choi)
Người đọc không thể quên hình ảnh “nắng cháy lưng” trong thơ Tố Hữu.
- Nhớ về những người thuỷ chung son sắt, nghĩa tình với kháng chiến:
Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Thơ  hay và thấm thía bởi đề cập tới nghĩa tình con người cùng chia sẻ gian  khổ và niềm vui. Cuộc sống con người chỉ đẹp khi gian khổ càng sắt son,  gắn bó. Thơ Tố Hữu luôn đi sâu phát huy những gì tốt đẹp của truyền  thống hơn là theo hướng cách tân hiện đại. Vì thế, nhà thơ khám phá  những nét riêng của cuộc sống bình dị mà ấm áp của Việt Bắc:
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa.
- Nhưng cũng có lúc nỗi nhớ về cảnh và người Việt Bắc đẫm trong cảm xúc mơ màng, lãng mạn:
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đỉnh núi, nắng chiều lưng nương
Nỗi  nhớ thật đẹp. Ta nhận ra trong nỗi nhớ ba đối tượng không thể tách rời:  đó là nhớ về thiên nhiên, con người cuộc kháng chiến hào hùng và niềm  tin sâu sắc.
3. Nỗi nhớ về cuộc kháng chiến và niềm tin của con người
- Đoạn thơ sau:
+ “Nhớ khi giặc đến giặc lùng
… mai lên”
+ “Ai về ai có nhớ không… các khu”
Đọc những đoạn thơ này ta bắt nhịp được với âm vang, hình ảnh sống động của khúc ca hùng tráng về cuộc kháng chiến
+  Đó là cuộc kháng chiến thể hiện thể trận của chiến tranh nhân dân. Toàn  dân đánh giặc, đánh giặc ngay tại chỗ, đánh giặc bằng tất cả những gì  có trong tay. Dựa vào rừng núi để đánh giặc, quân dân đoàn kết:
Núi giăng thành luỹ sắt dây
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng.
+ Đó là cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện. Đây là hình ảnh trên đường ra trận:
“Những người Việt Bắc của ta
…mai lên”
Những hình ảnh so sánh: “Đêm đêm rầm rập như là đất rung”. Những hình ảnh khẳng định đội ngũ “Quân đi điệp điệp trùng trùng”;
Những hình ảnh đẹp trong chiến đấu “ánh sao đầu súng”;
Những hình ảnh khẳng định sức mạnh: “bàn chân nát đá”
Tin vui chiến thắng gắn liền với chiến dịch lớn:
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hoà bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Nhịp  thơ sôi nổi, giọng thơ hào hùng, những hình ảnh gây ấn tượng mạnh mẽ  khác hẳn ở đoạn trên êm ả, ngọt ngào, Tố Hữu đã truyền đến cho người  đọc, người nghe khí thế sôi động của chiến tranh toàn dân mà không phải  nhà thơ nào cũng có được. Ở đây Tố Hữu đã kết hợp giọng điệu ngọt ngào  của thơ lục bát với khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.
+ Tố Hữu đã phản ánh cuộc chiến tranh toàn diện:
Ai về ai có nhớ không
Ngọn cờ đỏ thẳm gió lồng cửa hang
….
Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu
Ta  vừa đánh giặc vừa lo phát triển kinh tế, vừa đánh giặc vừa chăm lo phát  triển văn hoá. Có như vậy mới thực hiện đúng đường lối kháng chiến  trường kì gian khổ nhưng nhất định thắng lợi. Ta nói vậy vì ta có niềm  tin.
- Tin vào Đảng và Bác Hồ:
ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền
Ở  đâu, ở đâu dù u ám do quân thù tàn phá, giày xéo, đốt phá, chém giết  hãy hướng về Việt Bắc. Nơi ấy có Trung ương Đảng và Bác Hồ. Câu thơ đã  gieo một niềm tin tưởng. Nhịp thơ, lời thơ đã tạo ra giọng điệu trang  trọng, lắng sâu trong niềm tin tưởng vô bờ. Anh cán bộ kháng chiến và  đồng bào các dân tộc Việt Bắc và cả chúng ta nữa đều có niềm tin ấy.
+  Sử dụng thể thơ lục bát, một hình thức thơ ca dân tộc. Nó phát huy đầy  đủ tiếng Việt nhất là con người Việt Nam. Đó là thuỷ chung tình nghĩa,  đạo lí uống nước nhớ nguồn.
* Những suy nghĩ, tư tưởng tình cảm của con người đất nước gắn liền với đạo lí tình nghĩa cách mạng.
- Tình nghĩa thuỷ chung, son sắt với căn cứ địa cách mạng
Mình về có nhớ núi non
Nhớ khi kháng chiến thuở còn Việt Minh
Mình đi mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa
- Tình nghĩa thuỷ chung gắn bó trong những ngày kháng chiến gian khổ, ác liệt:
+ “Mình đi có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai”
+ “Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo”
+ “Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành luỹ sắt đầy
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù”
- Thuỷ chung tình nghĩa, thơ diễn tả lối sống theo đạo lí uống nước nhớ nguồn:
+ “Mười lăm năm ấy ai quên
Quê hương cách mạng dựng nên cộng hoà
Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào”
- Thuỷ chung, son sắt với niềm tin vào Đảng, Bác Hồ:
+ “Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền”
- Tình nghĩa thuỷ chung với nhân dân các dân tộc Việt Bắc:
+ “Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”
+ “Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đấy đắng cay ngọt bùi
Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn xui đắp cùng”
+ “Mình đi có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son”
+ “Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy”
+ “Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
…thuỷ chung”
*  Thể thơ lục bát được vận dụng trong một bài thơ dài và nhiều lời thể  hiện truyền thống dân tộc để làm sáng tỏ nghĩa tình cách mạng.
- Thơ lục bát tạo ra âm hưởng thống nhất mà lại biến hoá đa dạng
+ Tha thiết ở nỗi nhớ
+ Sôi nỗi, mạnh mẽ, hào hùng ở ca ngợi kháng chiến
+ Trang trọng thiết tha thể hiện niềm tin biết ơn
- Lời nói giàu hình ảnh
+ Thiên nhiên, con người Việt Bắc
+ Biểu dương lực lượng và sức mạnh
+ Thế trận của chiến tranh nhân dân
- Sử dụng nhiều cách chuyển nghĩa truyền thống
+ Lối so sánh
+ Lối ẩn dụ
+ Tượng trưng, ước lệ
“Ta về ta nhớ những hoa cùng người”
“Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”
“Ở đâu u ám quân thù”
Tham khảo thêm
Câu 1: Hoàn cảnh sáng tác: Cuối năm 1954, cuộc kháng chiến chống thực  dân pháp của nhân dân ta thắng lợi. Trung ương đảng và chính phủ với  chiến khu Việt Bắc về thủ đô Hà Nội sau 9 năm kháng chiến gian khổ,  trường kì. Tố Hữu đã viết bài thơ “Việt Bắc” để ghi lại tình cảm và mối  quan hệ gắn bó khăng khít, nghĩa tình nặng sâu của nhân dân Việt Bắc về  cán bộ và chiến sĩ cách mạng.
 - Trạng thái nhân vật: Trạng thái bâng khuâng bồn chồn, bịn rịn, lưu luyến khi chia tay.
 + Người ở lại lên tiếng trước và gợi nhắc về những kỉ niệm gắn bó suốt 15 năm.
 “ Mình về mình có nhớ ta
 15 năm ấy thiết tha mặn nồng”
 + Người ra đi cũng còn trạng thái ấy nên nỗi nhớ không chỉ hướng về người khác mà còn là nhớ chính mình.
 + Lời hỏi đã khơi gợi cả một quá khứ đầy ắp kỷ niệm, khơi nguồn cho mạch cảm xúc nhớ thương tuôn chảy.
 - Nỗi nhớ mênh mang, da diết với nhiều sắc thái và cung bậc khác nhau:  Trong hoài niệm, nỗi nhớ có ba phương diện gắn bó, không tách rời, nhớ  cảnh, nhớ người và nhớ về những kỉ niệm kháng chiến.
 Câu 2: Nhớ về thiên nhiên Việt Bắc.
 - Thiên nhiên Việt Bắc hiện lên với vẻ đẹp đa dạng theo không gian,  thời gian khác (Sương sớm nắng chiều, trăng khuya, các mùa trong năm).
 - Thiên nhiên trở nên đẹp hơn, hữu tình hơn khi có sự gắn bó với con  người (người mẹ địu con lên rẫy, người đau nón, em gái hái măng…).
 - Đoạn thơ “Rừng canh hoa chuối đỏ tươi” nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung” là đoạn thơ tả cảnh đặc sắc của Tố Hữu.
 - Đoạn thơ được xen kẽ cứ một câu tả cảnh lại một câu tả người vừa thể  hiện sự gắn bó giữa cảnh và người vừa làm giảm bớt ấn tượng về sự hoang  vu, hưu quạnh của núi rừng văn bản.
 - Cảnh vật hiện lên như một bài tứ bình về bốn mùa (Xuân , hạ, thu, đông), mỗi mùa có những nét đẹp riêng.
 - Nhớ về cuộc sống và con người Việt Bắc.
 + Cuộc sống thanh bình, êm ả.
 “Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
 Chày đêm nện cối đều hai suối xa”.
 + Cuộc sống vất vả, khó khăn trong kháng chiến.
 “Thương nhau chia củ sắn lùi
 Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”.
 -> Cảnh sinh họat bình dị của người dân Việt Bắc. Nét đẹp nhất chính  là nghĩa tình và lòng quyết tâm đùm bọc, che chở cho cách mạng, hi sinh  tất cả vì kháng chiến dù cuộc sống còn rất khó khăn.
 Câu 3: Nhớ về những kỉ niệm kháng chiến.
 + Những cảnh rộng lớn, những họat động tấp nập sôi động của kháng chiến  được tái hiện với bút pháp đậm nét tráng ca: “Những đường Việt bắc của  ta … Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay”
 - Việt Bắc có vai trò quan  trọng trong chiến đấu. Không chỉ do địa hình hiểm trở mà còn nhớ có sự  đùm bọc, yêu thương, che chở và tình cảm gắn bó của người dân Việt Bắc.
 Câu 4: Nghệ thuật
 - Tính trữ tình – chính trị: “Văn bản” là khúc hát ân tình, thủy chung  của những người cách mạng về lãnh tụ, về Đảng và cuộc kháng chiến.
 - Giọng thơ tâm tình ngọt ngào, tha thiết.
 - Nghệ thuật bài thơ giàu tính dân tộc: Thể thơ lục bát, kết cấu đối  đáp. Nghệ thuật sử dụng hình ảnh và biện pháp so sánh ẩn dụ quen thuộc  của ca dao.