Tìm hiểu và phân tích tóm tắt văn học Đời thừa
			 
			 
			
		
		
 
 
 
 
 
 
Tác  giả
       Nam  Cao  (1915 - 1951) là bút danh của Trần Hữu Tri. Quê ở Đại Hoàng, Lý Nhân, tỉnh Hà  Nam. Trước 1945, dạy học, viết văn, 1943 gia nhập Hội Văn Hóa Cứu quốc. Tham gia  cướp chính quyền ở địa phương, 1946 làm phóng viên mặt trận miền Nam Trung Bộ.  Sau đó lên Việt Bắc làm công tác Văn nghệ, 1951 hy sinh tại vùng địch hậu Liên  khu III.
     Ông là nhà văn  hiện thực xuất sắc trước Cách mạnh. Tác phẩm gồm có trên 60 truyện ngắn và 1  tiểu thuyết Sống mòn, Chí Phèo, Lão Hạc, Mua nhà,  Đời thừa… là những truyện ngắn đặc sắc của Nam Cao. Sau Cách mạng Nam  Cao viết chưa được nhiều vì ông hy sinh quá sớm: truyện ngắn Đôi mắt, Nhật ký ở  rừng, Chuyện Biên giới.
     Nam Cao có tài  kể chuyện, ngôn ngữ uyển chuyển, gần với lời ăn tiếng nói của quần chúng. Giỏi  phân tích tâm lý nhân vật. Nhiều trang văn của ông thấm đượm ý vị triết lý trữ  tình. Đề tài nông dân nghèo và người trí thức tiểu tư sản được Nam Cao viết rất  hay và cảm động.
 
 
Xuất  xứ, chủ đề
        1. Truyện ngắn “Đời thừa” đăng trên tuần báo “Tiểu thuyết thứ bảy” số 490 ra ngày 4/12/1943.
      2. Tác giả cảm thông và  xót xa đối với tấn bi kịch tinh thần đau đớn, dai dẳng của người trí thức nghèo  có tài năng, có tâm huyết, giàu lòng nhân đạo trong xã hội thực dân phong kiến.  Đồng thời lên án gay gắt cái xã hội ngột ngạt bóp chết mọi mơ ước, tước đi cuộc  sống chân chính của con người, đã đầu độc tâm hồn con người và mối quan hệ vốn  đẹp đẽ giữa người và người.
 
Tóm  tắt truyện
       Hộ là một nhà  văn trẻ có tài, viết thận trọng, ôm ấp một lý tưởng một hoài bão xây dựng nên  một sự nghiệp văn chương. Nhưng từ khi mở rộng đôi cánh tay, đón lấy Từ - một cô  gái lỡ làng, bị tình nhân phụ - Hộ nuôi Từ, nuôi mẹ già, con dại cho Từ, Hộ mới  hiểu thế nào là giá trị của đồng tiền, những bận rộn tẹp nhẹp ngốn phần lớn thì  giờ của hắn. Hộ phải cho in nhiều cuốn văn viết vội. Hắn đỏ mặt xấu hổ khi đọc  văn mình, tự mắng mình là một thằng khốn nạn. Có lúc anh tự nhủ mình phí đi vài  năm để kiếm tiền. Một bầy con thơ nhiều đẹn, nhiều sài, quấy rức, Hộ điên người  lên vì phải xoay tiền. Hắn trở nên cau có, gắt gỏng. Có lúc, mắt chan chứa nước,  mặt hầm hầm đi ra phố, vừa đi vừa nuốt nghẹn. Hắn lắc đầu tự bảo: “… Ta đã hỏng  đứt rồi!”. Hắn rũ buồn.
     Vốn thương vợ  con thế nhưng rồi Hộ tìm đến rượu, thay đổi dần tâm tính. Hắn say rượu, ngủ say  như chết. Có lần hắn đòi đuổi mấy mẹ con Từ ra khỏi nhà, đòi vật một nhát cho  chết cả! Nhưng sáng hôm sau tỉnh rượu hắn bẽn lẽn kêu mình đã quá chén, xin lỗi  Từ, hôn hít các con như một người cha tốt. Hắn hứa chừa rượu… nhưng rồi lại  uống, lại say, lại làm những trò vừa buồn cười vừa đáng sợ như lần  trước.
     Hộ rất yêu vợ  con. Khi Từ ốm đau, Hộ lo xanh mặt, thức suốt đêm săn sóc thuốc thang cho vợ. Đi  xa vài ngày, lúc về nhà hắn hôn hít các con, cảm động đến ứa nước mắt. Hắn độc  sách say mê, đọc và nghiền ngẫm, hắn thổ lộ “dẫu ăn một món ăn ngon đến đâu cũng  không thích bằng đọc và hiểu được một câu văn hay. Có lần, trước khi đi lấy tiền  nhuận bút, hắn hứa mua bánh và thịt quay về cho con. Nhưng hắn gặp Trung và Mão,  bạn văn, bao nhiêu tiền đem tiêu sạch. Say mèm mới trở về nhà. Lần này hắn đánh  Từ, đuổi vợ con ra khỏi nhà lúc đang đêm. Gần sáng, tỉnh rượu, hắn nhớn nhác đi  tìm Từ. Thấy Từ xanh xao ôm con thơ đang thiếp đi trên võng. Hắn thương cảm,  ngắm nghía mặt Từ lâu lắm, rồi khẽ thở dài, lắc đầu ái ngại, dịu dàng nắm lấy  tay Từ, rồi khóc nức nở. Từ tỉnh giấc, choàng tay ôm lấy cổ chồng. Nước mắt Từ  giàn giụa. Nức nở Từ nói: “… Chính vì em mà anh khổ!”… Giật mình, con thơ khóc.  Từ vừa dỗ con, vừa cất tiếng ru qua làn nước mắt:
             “Ai làm  cho khói lên giời,
             Cho mưa  xuống đất, cho người biệt li;
             Ai làm  cho Nam, Bắc phân kì,
             Cho hai  hàng lệ đầm đìa tấm thương”
                                                              Thơ Tản Đà
 
Phân  tích 
        1. Nhân vật Từ
     - Ngoại hình:  chắc là thời con gái, Từ cũng có một ít nhan sắc? Nam Cao rất ít tả ngoại hình.  Phần cuối truyện, chỉ có một vài nét vẽ, tác giả tả Từ một người đàn bà “bạc  mệnh”: Da mặt xanh nhợt, môi nhợt nhạt, mi mắt hơi tim tím, mắt có quầng, má hơi  hóp lại,… Cái bàn tay lủng củng rặt những xương. Cổ tay mỏng mảnh. Làm da mỏng,  xanh trong, xanh lọc… Đó là hình ảnh một thiếu phụ, nhiều lo lắng, thiếu thốn về  mặt vật chất. Vẻ đẹp thời con gái đã tàn phai.
     - Lỡ làng vì bị  tình phụ. Cảnh Từ ôm con sau ngày đẻ, nhịn đói, mẹ già bị mù, “cả mẹ lẫn con chỉ  có một cách là khóc cho đến khi nào bao nhiêu thịt đều chảy ra thành nước mắt  hết, để rồi cùng chết cả”.
     - Từ là hội tụ  bao đức tính tốt đẹp của người vợ yêu chồng, người mẹ thương con. Dịu dàng, chịu  thương chịu khó, giàu đức hy sinh. Từ hiểu rằng Hộ khổ là vì Từ. Từ chén nước  đến cử chỉ lời nói, chị đã dành cho Hộ bao tình thương yêu. Bị Hộ say rượu hắt  hủi, đánh đuổi, nhưng Từ vẫn yêu chồng, không thể ôm con bỏ đi được, vì ngoài  tình yêu, Hộ còn là ân nhân của chị. “Từ yêu chồng bằng một thứ tình yêu rất gần  với tình của một con chó dối với người nuôi”.
     - Phần cuối  truyện, Từ ôm lấy cổ chồng nói: “… Không!... Anh chỉ là một người khổ sở… Chính  vì em mà anh khổ…”. Nàng ru con qua dòng nước mắt… cho thấy Từ là một người bạc  mệnh, nhưng bản tính rất dịu dàng, giàu đức hy sinh.
     - Nam Cao với  trái tim nhân đạo đã miêu tả sâu sắc tâm hồn nhân hậu của Từ, cảm thông với nỗi  đau của Từ, của bao người phụ nữ “bạc mệnh” và đau khổ trong xã hội cũ. Tiếng ru  con của Từ là tiếng thương, là nỗi đau buồn về cuộc đời bi kịch của người phụ  nữ: sống trong tình yêu mà ít có hạnh phúc!
      2. Nhân vật Hộ
     a.  Hộ là một con người giàu tình thương
     - Hộ đã hành  động một cách cao đẹp “nuôi Từ, nuôi mẹ già, con dại cho Từ”. Lúc mẹ Từ qua đời,  Hộ đã đứng ra làm ma, rất chu đáo. Hộ nhận Từ làm vợ, nhận làm bố cho đứa con  thơ… Như một nghĩa cử cao đẹp, Hộ đã cứu vớt mẹ con Từ. Biết bao nhiêu là ân  nghĩa. Hộ sống vì tình thương vì sự bao dung chở che, như anh quan niệm “Kẻ mạnh  chính là kẻ giúp đỡ kẻ khác trên đôi vai mình”.
     - Hộ là một  người chồng thật sự yêu thương vợ con. Anh tính chuyện “phí đi một vài năm để  kiếm tiền” lo cho Từ một cái vốn làm ăn. Những lúc Từ ốm, “Hộ lo xanh mặt và  thức suốt đêm”. Chỉ xa các con vài ngày, lúc gặp lại chúng, Hộ cảm động đến ứa  nước mắt, “hôn hít chúng vồ vập”. Có lúc từ mồng mười đến cuối tháng, Hộ không  dám bước chân ra khỏi nhà để bớt chi tiêu, hắn thương vợ con có bữa phải nhịn  cơm ăn cháo. Sắp nhận được tiền nhuận bút, hộ thương đàn con thơ cả tháng “đói  khát khổ sở, hôm nay có tiền cũng nên cho chúng nó một bữa ăn ra  hồn”.
     - Hộ là một nhà  văn nhân đạo chủ nghĩa. Với Hộ thì trang văn là cuộc đời, thấm tình đời “phải  chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó  ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình. Nó làm cho người gần người hơn”.  Đó là một quan niệm rất tiến bộ, quan niệm “nghệ thuật vị nhân sinh”. Nhà văn  phải vì con người, vì hạnh phúc của con người. Qua đó, ta thấy, là con người xã  hội, là nhà văn, là người chồng người cha, trong con người và tâm hồn Hộ đều tỏa  sáng một tình nhân ái bao la. Anh đã sống và hành động, vun đắp cho hạnh phúc  của con người.
     b.  Hộ là một nhà văn trải qua một bi kịch tinh thần đau đớn, dai  dẳng
     - Hộ có tài, lúc  đầu, anh viết rất thận trọng. Mang một hoài bão lớn, “hắn băn khoăn nghĩ đến một  tác phẩm nó sẽ làm mờ hết các tác phẩm cùng ra một thời”. Từ khi phải lo kiếm  tiền nuôi vợ con, Hộ “cho in nhiều cuốn văn viết vội”, anh xấu hổ khi đọc lại  văn mình, tự xỉ vả mình “là một thằng khốn nạn”, “là một kẻ bất lương!”. Trước  kia tin tưởng bao nhiêu thì nay đau đớn thất vọng bấy nhiêu! Hắn “rũ buồn”, lắc  đầu tự bảo: “Thôi thế là hết! Ta đã hỏng! Ta đã hỏng đứt rồi!”
     - Văn chương đối  với Hộ như là một cái nghiệp. Nợ áo cơm  ghì sát đất, nhưng anh vẫn mê văn. Hộ nói, đọc được một câu văn hay mà hiểu được  thì “dẫu ăn một món ăn ngon đến đâu cũng không thích bằng”. “Hộ điên người lên  vì phải xoay tiền” nhưng hắn bảo “khổ thì khổ thật, nhưng thử có người giàu bạc  vạn nào thuận đổi lấy cái địa vị của tôi, chưa chắc tôi đã đổi”.
     - Mất dần cuộc  đời hồn nhiên trong sáng, có lúc “chan chứa nước mắt, mặt hầm hầm”. Hắn đọc sách  mà trông cũng dữ tợn: “đôi lông mày rậm… châu đầu lại với nhau… cái mặt hốc  hác…”.
     - Hộ đã tìm đến  rượu để giải sầu, càng ngày hắn càng lún sâu vào bi kịch, say rượu và đối xử vũ  phu với vợ con. Vốn rất yêu vợ con nhưng có hôm say rượu hắn gườm gườm đôi mắt,  đòi “vật một nhát cho chết cả”. Tỉnh rượu lại bẽn lẽn xin lỗi Từ, hứa chừa rượu,  được một thời gian ngắn, lại say, lại đánh vợ, “làm những trò vừa buồn cười, vừa  đáng sợ như lần trước”. Trở thành bê tha “hắn đã ngủ một nửa ngày từ khi còn ở  dọc đường”, về đến nhà thì đổ xuống giường “như một khúc gỗ… ngủ sau như chết!”.  Có điều lạ, Hộ rất “tỉnh” khi anh bàn luận văn chương, rất biết điều và ân hận  thực sự lúc tỉnh rượu. Hắn nhìn Từ xanh xao mà thương hại, nắm lấy tay Từ mà  khóc “Nước mắt hắn bật ra như nước một quả chanh mà người ta bóp mạnh. Và hắn  khóc… Ôi chao! Hắn khóc! Hắn khóc nức nở…”. Rồi hắn tự lên án mình “chỉ là… một  thằng… khốn nạn!”
     - Và câu hát ra  còn thấm lệ của Từ như tô đậm thêm bi kịch của Hộ, của hai vợ chồng. Nỗi đau ấy  được cực tả qua câu hát “cho hai hàng lệ đầm đìa tấm thương”. Tiếng khóc của Hộ,  tiếng khóc của Từ mang ý nghĩa tố cáo cái xã hội tàn  ác đã cướp đi mọi mơ ước, đã đày đọa cuộc sống của mỗi gia đình, đã đầu đọc tâm  hồn con người và làm méo mó mối quan hệ vốn tốt đẹp giữa người và  người.
     - Cũng qua nhân  vật Hộ, Nam Cao đã thể hiện ngòi bút hiện thực vừa tỉnh táo, sắc lạnh, vừa nặng  trĩu suy nghĩ và đằm thắm yêu thương. Nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật qua  dòng độc thoại, qua tiếng khóc của Hộ và Từ làm cho người đọc vô cùng thấm thía  về bi kịch của một trí thức nghèo, của một nhà văn nghèo trong xã hội  cũ.
 
Kết  luận 
        Truyện “Đời thừa”, là một thành công tiêu  biểu của Nam Cao viết về đề tài người trí thức nghèo trước Cách mạng. Truyện đã  hàm chứa một tình nhân đạp và có giá trị tố cáo hiện thực sâu sắc. Truyện “Đời  thừa” nói lên một quan niệm văn chương rất tiến bộ của Nam Cao: Văn chương phải  vì con người, làm cho người gần người hơn. Hộ như một nhân vật tự truyện, được  xây dựng rất chân thực và sắc sảo, cho thấy cái tài của Nam Cao trong kể chuyện  và khắc họa tính cách nhân vật. Từ Hộ trong “Đời thừa” đến “Độ” trong “Đôi mắt”  cũng là một nhịp đời của Nam Cao đến với Cách mạng và kháng chiến. 
 
 |  
  
 
		
		
		
 
  
 | 
 |   
 
    BÁO LỖI BÀI VIẾT
 Hãy gửi cốc trà đá cho TTB tài khoản ngân hàng phía dưới hoặc paypal : 
    paypalme/tuthienbao
 Giúp có kinh phí duy trì Free  
 
 
TÌM BÀI VIẾT KHÁC SEARCH TRÊN THANH TìM KIẾM PHÍA TRÊN WEB 
 
 
		
		
		
			
			
			
			
				 
			
			
			
			
			
			
			
				
			
			
			
		 
	
	 | 
 
 
 
 
	 
	
		
	
	
		
 
  	 	 
 
	
ADS
	
	
 
 
	
	
Miễn trừ trách nhiệm.NẾU CÓ ĐIỀU KIỆN HÃY MUA SÁCH ỦNG HỘ NHÀ XUẤT BẢN 
© Tuthienbao.com- TTB chúng tôi không cung cấp chức năng đăng ký thành viên để viết bài hay bình luận - Nếu có khiếu nại chung tôi sẽ xử lý.Mọi dữ liệu về diễn đàn trên website này đều được chúng tôi và các thành viên tham gia website tổng hợp từ  tất cả các trang website .Do đó, chúng tôi không chịu trách nhiệm về những dữ liệu được chia sẻ tại đây.Truyện Nội Dung được chia sẻ chỉ với mục đích giải trí, phi lợi nhuận. Mọi bản quyền thuộc về tác giả và nhà xuất bản gốc.Nếu có yêu cầu gỡ bỏ, xin liên hệ qua email
  
truyen tranh,
truyen tranh 8,truyen tranh hay,
truyen tranh online,
ebook,ebook ngon tinh,
van hoc lop 5,van hoc lop 6,van hoc lop 7,van hoc lop 8,van hoc lop 9,van hoc lop 10,van hoc lop 11,van hoc lop 12,
 
     |