Tìm kiếm chủ đề bài viết ở đây trước khi hỏi TTB -Tìm bằng tiếng việt có dấu càng chính xác-Ví Dụ:Đánh vào Hwang mi ri để tìm truyện tác giả này
 
Hãy ủng hộ mua bất kỳ sản phẩm trên shopee.vn truy cập Vào Đây tìm sản phẩm rồi mua, mỗi lượt mua đều giúp duy trì website hoạt động miễn phí
KHÔNG XEM ĐƯỢC ẢNH TRUY CẬP ĐỔI DNS CLICK VÀO ĐÂY 
 
   	  	 
 
 
		 
	 
 
  
	
	
		
	
	
	| 
		
		 
			
				23-09-2012, 09:41 PM
			
			
			
		 
	 | 
 
	
		
        
        
		
		        
 
                                |   	
                              
				
 				 Đầy Tớ Của Nhân Dân 
	
                 
 Facebook: https://www.facebook.com/tuthienbaocom 
		
 | 	
	
			
			 | 
	
			
	
                              
					  
					
					
					
				
			 | 
		  |  
		 
		
	 | 
 
	
	
		
	
		
		
			
			
				 
				Phân tích nhân vật Thuý Kiều để thấy được quan niệm nghệ thuật mới tiến bộ về con người, cá nhân của Nguyễn Du.
			 
			 
			
		
		
 
 
 
 
 
 
Bài làm: 
     Đời người, với những nỗi buồn sầu thế và những bất hạnh khôn cùng  trải dài ra mênh mông, vô tận, cập bến lửa thiêng và đến với nhà thơ  Nguyễn Du- một đại thi hào của dân tộc. Thân phận con người, đặc biệt là  thân phận người con gái trong xã hội phong kiến suy tàn với bao bất  công ngang trái, coi trọng thế lực đồng tiền đã đi vào trái tim nhà thơ  với bao rung cảm và bao xót xa đau đớn. Hình tượng Thuý Kiều ra đời  trong bao dồn nén về cuộc đời, về thân phận con người của nhà thơ. Đó là  đại diện cho một kiếp người, một lớp người trong xã hội phong kiến hủ  bại và thối nát. Qua hình tượng nàng Kiều và với những giá trị hiện  thực, giá trị nhân đạo sâu sắc trong tác phẩm “Truyện Kiều”, ta có thể  thấy rõ được quan niệm nghệ thuật mới tiến bộ về con người, về cá nhân  của đại thi hào Nguyễn Du. 
       “Truyện Kiều” được sáng tác dựa trên cơ sở cốt truyện của tiểu  thuyết chương hồi Trung Quốc “Kim Vân Kiều truyện”. Tuy nhiên Nguyễn Du  đã sáng tạo nên một tác phẩm mới, với cảm hứng mới, nhận thức lý giải về  nhân vật theo cách của riêng ông, với thể loại truyện thơ khác hẳn “Kim  Vân Kiều truyện” là tác phẩm tự sự văn xuôi. 
         Nhân vật nàng Kiều hiện lên trên nền bi kịch  của cuộc đời.  Nàng có ý thức về nhân phẩm của mình nhưng lại bị xã hội hủ bại chà đạp  nhân phẩm. Đó là bi kịch lớn nhất của đời người. Nỗi xót xa, đau đớn bao  trùm lên một con người mà “hoa ghen đua thắm liễu hờn kém xanh”, “một  hai nghiêng nước nghiêng thành- Sắc đành đòi một tài đành hoạ hai”. Văn  học trung đại viết về con người đã ít, viết về số phận con người, đặc  biệt là số phận của người phụ nữ lại càng ít hơn. Với cái xã hội trọng  nam khinh nữ thì một Nguyễn Du và một “Truyện Kiều” xuất hiện như toả  sáng nền văn học tối tăm, soi đường chỉ lối và tôn lên giá trị nhân phẩm  cao quý của con người. 
          Thuý Kiều- một người con gái tài hoa, xinh đẹp- một vẻ đẹp sắc  sảo, mặn mà, một tài năng hiếm thấy, nổi bật về cả cầm, kì, thi, hoạ.  Nguyễn Du đã dồn hết tâm huyết của mình vào sáng tạo hình tượng Thuý  Kiều, tôn lên vẻ đẹp của người phụ nữ vốn không được coi trọng trong xã  hội đương thời bằng một tấm lòng trân trọng yêu thương. Đó là điều hiếm,  hoặc thậm chí không tìm thấy trong các tác phẩm trước “Truyện Kiều”, và  các nhà thơ khác trước Nguyễn Du. Nghệ thuật đòn bẩy được sử dụng thật  tài tình, cái đẹp “mười phân vẹn mười”, “sắc sảo mặn mà”, Thuý Kiều quả  là một giai nhân hiếm có trên đời. Nếu như Thuý Vân có một vè đẹp “mây  thua”, “tuyết nhường”, hài hoà với cảnh vật xung quanh, với thiên nhiên,  tính cách đoan trang thuỳ mị như ngầm báo trước một tuơng lai êm đềm,  phẳng lặng thì Thuý Kiều với vẻ đẹp khiến cho “hoa ghen”, “liễu hờn”,  ngầm dự báo trước số phận của nàng sẽ gặp nhiều bất trắc, nhiều sóng gió  bão táp. Nàng Kiều đã tự viết lên khúc nhạc ai oán, não nùng. Phải  chăng nàng đã tự dự đoán trước được tương lai, số phận của mình- tương  lai, số phận của người con gái tài hoa nhưng bạc mệnh trong cái xã hội  chỉ coi trọng đồng tiền mà vùi dập, chà đạp lên thân thể, danh dự và cả  nhân phẩm của con người. Qua hình ảnh nàng Kiều, ta thấy được cái nhìn  yêu quý, trân trọng, cảm thông của Nguyễn Du với nhân vật lý tưởng của  mình, cũng như với những kiếp người nhỏ bé trong xã hội. Đó là quan niệm  nghệ thuật mới tiến bộ về con người, cá nhân của nhà thơ Nguyễn Du. 
          Biết cảm thông, chia sẻ, Kiều đã cảm thấy rất buồn và thương  cho nấm mộ Đạm Tiên bên đường cỏ mọc hoang, không ai chăm sóc. Người con  gái mang kiếp cầm ca, sống thì bị dè bỉu, chết đi thì nấm mồ cũng vẫn  cô đơn hiu quạnh. 
                                            “Kiếp hồng nhan có mong manh 
                                     Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương” 
         Phải chăng, cũng từ đây mà một cơn giông tố đang sắp ập đến  trên đầu người thiếu nữ vô tội. Nấm mồ hoang kia phải chăng như một sự  báo thức, như đánh dầu bước ngoặt cuộc đời của Kiều: 
                                         “Đau đớn thay phận đàn bà 
                                   Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung” 
         Kiều- một con người có vẻ đẹp ngoại hình, có tâm hồn trong  sáng, lương thiện, tài năng, đồng thời nàng cũng là người có khát vọng  tình yêu, hạnh phúc, vượt ra khỏi lễ giáo phong kiến: 
                                “Tình trong như đã mặt ngoài còn e 
                                        Chập chờn cơn tỉnh cơn mê” 
          Đặc biệt là hình ảnh “xăm xăm băng nẻo đường khuya một mình”  của Thuý Kiều để tìm Kim Trọng, tìm đến hạnh phúc của mình. Kiều đã vượt  qua những gò bó của thời cuộc để đi tìm hạnh phúc, điều mà khó tìm thấy  nơi những người con gái khác trong khi quan niệm “cha mẹ đặt đâu con  ngồi đấy” vẫn đang tồn tại rất mạnh mẽ trong xã hội. Nguyễn Du đã làm  cho nhân vật của mình thật nổi bật trên nền xã hội đồng tiền, xã hội  phong kiến hủ bại, thối nát. Ông coi trọng con người, coi trọng sự tự  do, hạnh phúc và quyền được tìm hạnh phúc cho mình của mỗi người mặc cho  định kiến xã hội đang vây lấy tất cả. 
                                    “Thuý Kiều sắc sảo khôn ngoan 
                                  Vô duyên là phận hồng nhan đã đành 
                                         Lại mang lấy một chữ tình 
                             Khư khư mình buộc lấy mình vào trong” 
           Con người sinh ra tài hoa không phải là một cái tội, nhưng  đặt trong hoàn cảnh lễ giáo phong kiến, những người có tài, có sắc, đặc  biệt là người phụ nữ lại hay phải chịu những truân chuyên, vất vả. Đang ở  độ tuổi đẹp nhất của thời con gái, vừa gặp được mối tình đầu của mình,  tưởng như cuộc sống sẽ chuyển mình bước trên một con đường hạnh phúc,  nhưng ông trời thường hay thử lòng người. Phải chăng, khúc nhạc mà Kiều  sáng tác trước kia đã trở thành chính cuộc đời nàng, ai oán và não nùng.  Chỉ vì đồng tiền, bọn sai nha đã gây nên vụ án oan trong gia đình Kiều,  vì đồng tiền mà bọn chúng đã phá hoại hạnh phúc gia đình Kiều, từ một  mái ấm êm đềm bỗng tan hoang, lạnh lẽo. Thuý Kiều, với tư cách là một  người chị cả phải đứng ra lo liệu mọi chuyện, nàng phải hi sinh mối tình  với Kim Trọng, bán mình lấy tiền hối lộ cho sai nha để cứu cha và em  khỏi bị tra khảo dã man. Bi kịch cuộc đời bắt đầu từ đây, khi mà con  người , khi mà nhân phẩm bị người ta mua đi bán lại như một món hàng. Mã  Giám Sinh, Tú Bà xuất hiện càng làm nổi bật lên hình tượng một Thuý  Kiều bất hạnh, đau đớn ê chề: 
                                       “Đắn đo cân sắc cân tài 
                                Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ 
                                        … Cò kè bớt một thêm hai” 
         Cái tài, cái sắc giờ đây bị mang ra cân đong đo đếm, bị quy ra thành tiền: 
                               “Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm” 
        Cảnh mua bán hiện lên thật sinh động, có người mua, kẻ bán, có  sự thử hàng, trả giá, mặc cả, giao kèo. Từ “ép”, “thử” đã lột trần bản  chất của Mã Giám Sinh, đồng thời khắc hoạ được rõ nét nỗi đau đớn, bất  hạnh khi bị coi như một món hàng mua bán của Thuý Kiều. Từ một nghìn mà  bị ngã giá xuống bốn trăm lạng, trong xã hội đồng tiền, con người chỉ  đáng giá thế thôi sao? 
          Xã hội phong kiến đã chà đạp lên nhân phẩm và đạo đức của con  người. Phẩm giá bị xúc phạm, Thuý Kiều căm tức những kẻ đã gây ra cho  gia đình nàng nỗi ô nhục này: “nỗi mình thêm tức nỗi nhà”. Nàng đau xót,  nàng khóc cho số phận hẩm hiu của mình: 
                               “Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng 
                                       Ngại ngùng dợn gió e sương” 
        Hình ảnh Thuý Kiều hiện lên thật tội nghiệp. Nàng đau khi nghĩ  đến “nỗi mình”- tình duyên dang dở, “nỗi nhà” bị vu oan giáng hoạ. Mỗi  bước đi của nàng nước mắt tuôn mà lòng quặn thắt. Là một tiểu thư khuê  các mà giờ đây lại trở thành một món hàng nên càng tủi thẹn, xấu hổ ê  trề khi phải đối mặt với sự thật. Nhưng Thuý Kiều càng buồn bao nhiêu  thì lại càng đẹp bấy nhiêu: “Nét buồn như cúc điệu gầy như mai”. Với bút  pháp ước lệ tượng trưng, tác giả đã khắc hoạ thành công nỗi buồn của  Kiều, đồng thời thể hiện niềm cảm thông sâu sắc trước thực trạng con  người bị chà đạp. Thuý Kiều hiện lên trên bức tranh khổ đau vẫn thật đẹp  về cả ngoại hình lẫn nhân phẩm. Dù bị xã hội dồn ép, đè nén, nhưng hình  ảnh một người con gái hi sinh hạnh phúc của mình và gia đình hiện lên  thật đáng quý, đáng trọng. Đó cũng là nét nghệ thuật tiến bộ về con  người, cá nhân của Nguyễn Du khi mà trong văn học cũ, con người không  được đề cao. 
               Biết rằng cuộc đời mình sẽ chuyển sang một trang mới,  biết rằng mối tình Kim- Kiều sẽ chẳng đi về đâu. Sau những đêm trắng  nghĩ đến thân phận và tình yêu, Kiều quyết đinh nhờ Vân thay mình kết  duyên với Kim Trọng: 
                                             “Cậy em em có chịu lời 
                                      Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa 
                                       Giữa đường đứt gánh tương tư 
                                   Kheo loan chắp mối tơ thừa mặc em”. 
  Là chị mà Kiều phải lạy, phải thưa với em của mình, một thái độ vừa  kính trọng, vừa biết ơn. Kiều đã nghĩ rất chu toàn, biết rằng việc này  rất khó cho Vân nên nàng rất khó để mở lời. Nàng tâm sự với em về mối  tình trong sáng, cao đẹp của mình đối với chàng Kim. Đối với Kiều, giữa  chữ hiếu và chữ tình, nàng đều muốn trọn vẹn cả hai. 
             Đau đớn nhất trong đời người là nhân phẩm bị chà đạp, và  nỗi đau đớn đó càng nhân lên gấp bội khi phải từ bỏ tình yêu của mình.  Kiều trao duyên cho Thuý Vân mà lòng đau xót, nuối tiếc, nhớ lại tất cả  những kỉ niệm đã qua, nhận ra mình là người bạc mệnh: 
                                     “Chiếc vành với bức tờ mây 
                                 Duyên này thì giữ vật này của chung 
                                         Dù em nên vợ nên chồng 
                                 Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên 
                                         Mất người còn chút của tin 
                                 Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa 
                                          Mai sau dù có bao giờ 
                                Đốt lò hương ấy so tơ phím này”. 
          Kiều tưởng tượng về tương lai mờ mịt của mình, nàng nghĩ mình  sẽ chết, nhưng dù có chết vẫn trở về lời nguyền thuỷ chung: 
                                        “Trông ra ngọn cỏ lá cây 
                                    Thấy hiu hiu gió thì hay chị về 
                                          Hồn còn mang nặng lời thề 
                                    Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai” 
  Đau đớn đến cực điểm, tâm hồn nàng như mê man, đang nói với em mà lòng  như hướng về chàng Kim và mong chàng hiểu cho nỗi niềm oan khuất của  mình: 
                                        “Trăm nghìn gửi lạy tình quân 
                                     Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi! 
                                           Phận sao phận bạc như vôi! 
                                   Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng” 
           Nỗi đau đớn, xót xa, nghẹn ngào đến xé lòng. Trong đau  thương, Kiều vẫn sáng ngời lên vẻ đẹp của mình, giàu lòng vị tha và đức  hi sinh” 
                                         “Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang! 
                                  Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây” 
  Từ một cô gái tiểu thư khuê các, vô lo vô nghĩ về cuộc đời, hạnh phúc  tình yêu đang chớm nở, giờ đây Kiều đã mất tất cả, hạnh phúc lứa đôi,  mái ấm gia đình. Nguyễn Du đã nhìn nhân vật của mình bằng một ánh mắt  cảm thông, chia sẻ, cho nàng được bộc lộ nỗi đau đớn của mình. Mỗi dòng  thơ, mỗi câu chữ đều thâm đẫm tình cảm của tác giả với số phận của Kiều,  của những người con gái như Kiều, không chỉ thế, ông còn gián tiếp tố  cáo xã hội phong kiến đã gây ra cho con người bao tang thương, mất mát,  bao đau đớn, ê chề, xã hội coi trọng đồng tiền hơn cả con người, cái xã  hội mà tại đây, bao con người, bao người con gái đã bị dẫm đạp lên nhân  phẩm, đã phải sống cuộc đời của một con người mà sống không bằng chết,  đau đớn, nhục nhã.  
                                     “Đau đớn thay phận đàn bà 
                                   Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu” 
  
             Từ lúc gặp biến cố, phải bán mình chuộc cha, trao duyên lại  cho em là Thuý Vân, Kiều đã trải qua 15 năm lưu lạc, trong 15 năm ấy,  Kiều đã gặp phải bao sự lọc lừa nhưng có lẽ đau đớn nhất là lần Kiều bị  Mã Giám Sinh lừa bán đến lầu xanh. Đó là bước ngoặt bẻ ngang cuộc đời  Kiều sang một hướng khác. Rơi vào tay Tú Bà, Kiều rút dao tự vẫn nhưng  không thành. Ở lầu Ngưng Bích, Kiều lại mắc bẫy Sở Khanh, bị đánh đập  tơi bời “Thân lươn bao quản lần đầu- Chút lòng trinh bạch từ sau xin  chừa”.  
         Sống ở lầu Ngưng Bích, trong cảnh cô đơn tuyệt đối, Kiều không  biết tâm sự với ai, nàng đành tự tâm sự với chính mình. Trước hết nàng  nhớ đến chàng Kim, nhớ đến lời thề đôi lứa: “Tưởng người dưới nguyệt  chén đồng- Tin sương luống những rày trông mai chờ”. “Tưởng”, đó là tâm  trạng của những người yêu nhau trong xa cách. Nàng nhớ đến lời thề  nguyền dưới ánh trăng. Hình dung ra nỗi nhớ, sự chờ mong nàng trong vô  vọng của chàng Kim. Nàng nghĩ đến chàng Kim trong cảnh cô đơn, bơ vơ nơi  chân trời, góc bể. Thuý Kiều là một người con hiếu thảo nhưng tác giả  lại để cho Kiều nhớ đến chàng Kim trước , nhớ đến cha mẹ sau. Điều này  thể hiện sự tinh tế của tác giả phù hợp với quy luật tâm sinh lý bởi vì  Kiều đã bị Mã Giám Sinh làm nhục, ép tiếp khách làng chơi nên nỗi đau  lớn nhất của Kiều là “tấm son gột rửa bao giờ cho phai”. Có thể hiểu  theo hai nghĩa, tấm son là tấm lòng nhớ tới chàng Kim không bao giờ  nguôi hoặc tấm lòng son của Kiều bị vùi dập hoen ố không biết bao giờ  mới gột sạch được. Nàng nhớ đến cha mẹ sau vì dù sao, khi bán mình chuộc  cha, nàng cũng đã phần nào báo đáp được cha mẹ. Nàng nhớ và thương cha  mẹ khi sớm chiều tựa cửa ngóng trông con. Nàng xót xa lúc cha mẹ ốm đau  mà nàng không được tự tay chăm sóc, phụng dưỡng. Nàng tưởng tượng cảnh  quê hương tất cả đã thay đổi, và thay đổi lớn nhất là cha mẹ ngày càng  già yếu. Trong cảnh ngộ bị giam lỏng trong lầu Ngưng Bích, không lúc nào  là nàng không nhớ về Kim Trọng, về gia đình. Kiều đã bộc lộ phẩm chất  đáng quý, một tấm lòng vị tha đáng trọng, một con người thuỷ chung, hiếu  thảo. Nguyễn Du hiểu thấu tâm trạng và suy nghĩ của nhân vật của mình.  Với ngòi bút xuất sắc của mình, kèm các điểm tích, điển cố, tác giả đã  làm tôn lên sáng ngời vẻ  đẹp trong tâm hồn của người con gái bất hạnh,  dù bị hoàn cảnh xô đẩy nhưng tâm hồn vẫn luôn trong sáng, lương thiện,  luôn hướng về mái ấm gia đình, hạnh phúc lứa đôi. Đây cũng chính là phẩm  chất đáng quý của người phụ nữ Việt Nam trong mọi thời đại, ngời sáng  những lý tưởng cao đẹp. 
             Nhớ người yêu, nhớ cha mẹ, Kiều càng thấm thía nỗi cô đơn trống vắng của mình: 
                                “Buồn trông cửa bể chiều hôm 
                          Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa 
                                  Buồn trông ngọn nước mới sa 
                          Hoa trôi man mác biết là về đâu 
                                  Buồn trong ngọn cỏ rầu rầu 
                         Chân mây mặt đất một màu xanh xanh 
                                  Buồn trông gió cuốn mặt duyềnh 
                          Ầm ấm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi” 
  Người buồn, cảnh cũng buồn. Nỗi buồn vô vọng, kéo dài, trải rộng ra  mênh mang. Tiếng sóng như báo trước sóng gió dữ dội của cuộc đời hay là  tiếng kêu đau đớn của Kiều đồng vọng với thiên nhiên? Kiều không chỉ  buồn mà còn lo sợ, kinh hãi trước sóng gió, bão táp của cuộc đời đang  sắp đổ xuống đầu nàng! Nỗi buồn thoảng thốt lo âu, dự cảm hãi hùng của  một người con gái lần đầu lạc bước giữa cuộc đời lắm sóng gió và truân  chuyên. Lúc này Kiều trở nên tuyệt vọng để rồi “thanh lâu hai lượt,  thanh y hai lần”. Tiếng sóng gầm lên dữ dội như muốn hất tung, nhấn chìm  người con gái cô đơn, tội nghiệp trên chiếc ghế đời mỏng manh. Qua đó,  ta càng thấy rõ được tấm lòng chân trọng, cảm thông của tác giả đối với  số phận người con gái tài hoa bạch mệnh. “Trăm năm trong cõi người ta-  Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau” 
          Kiều- một nhân phẩm quá đỗi cao đẹp, một tâm hồn trong sáng,  một bông hoa từ cảnh sống “êm đềm chướng rủ mành che” bỗng nhiên bị ném  vào bùn nhơ, giữa cái xót. Sống trong cảnh lầu xanh biết bao “bướm lả  ong lơi” mà Kiều vẫn giữ được một tâm hồn trong sáng. Giật mình lúc nửa  đêm khi tỉnh rượu, nàng chợt nhận rõ tình cảnh của bản thân. Sống trong  cảnh lầu xanh, Thuý Kiều vẫn không quên đi nỗi nhục của bản thân. Phải  chăng, nếu nàng quên được thì đã không đau khổ đến thế này? Đau khổ vẫn ở  trước mắt, quá khứ tươi đẹp lại quá xa xôi. Cảnh thiên nhiên đẹp nhưng  thấm đậm nỗi buồn: 
  
  
                               “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu 
                           Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ? 
                                             …. 
                                   Vui là vui ngượng kẻo là, 
                             Ai chi âm đó mặn mà với ai?”             
       Nàng chán chường vì không tìm ra được người tri âm tri kỉ. Câu  hỏi được đặt ra giống như nàng đang đi tìm tri âm của mình, nhưng cũng  chính là tự khẳng định: không có ai cả. Thuý Kiều rơi vào một tình cảnh  trớ trêu, dễ làm con người đánh mất nhân phẩm. Kiều ý thức rõ nhân phẩm  đau khổ của mình, tiếc nuối quá khứ, khinh ghét bản thân, thờ ơ với  những thú vui ở lầu xanh. Nguyễn Du không thương xót chung chung mà ông  chú ý đến nỗi đau cá nhân của con người. Sau lối xưng “ta” đặc trưng của  văn học trung đại, ta chợt nghe thấy một giọng ca riêng cùng nỗi thương  thân của cái “tôi”. Thương mình là nền tảng vững chắc cho lòng thương  người. Mà đây là “nỗi thương mình” của con người dưới đáy xã hội nên nó  càng mới lạ và giàu tính nhân đạo. Nó cho thấy Nguyễn Du quan tâm tới  mọi tầng lớp trong xã hội chứ không chỉ ở tầng lớp trên. Không phải  những người ở hoàn cảnh xấu đều xấu. Đó là quan điểm nghệ thuật mới tiến  bộ về con người, cá nhân của Nguyễn Du. 
            Bên cạnh những phẩm chất đáng quý trong tâm hồn, ở Kiều còn  nổi bật lên hình ảnh một con người bao dung, giàu lòng vị tha. Đối với  Thúc Sinh, kẻ đã cứu nàng thoát khỏi bùn lầy nhơ nhuốc, nàng đã rất trân  trọng biết ơn: 
                             “Nàng rằng nghĩa nặng nghìn non 
                        Lâm tri người cũ chàng còn nhớ không? 
                               Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng 
                        Tại ai há dám phụ lòng cố nhân” 
  Còn đối với Hoạn Thư, nàng cũng rộng lòng tha thứ: “Dã lòng tri quá  thì nên- Truyền quân lịnh xuống trướng tiền tha ngay”. Thuý Kiều trong  toàn tác phẩm hiện lên luôn thật cao đẹp và sáng ngời. Nguyễn Du đã thổi  hồn vào cây bút, làm nên một Thuý Kiều đẹp về cả thể xác lẫn tâm hồn.  Tuy cuộc sống luôn gặp nhiều bất trắc nhưng tâm hồn vẫn nở hoa giữa bùn  nhơ của cuộc đời, của xã hội bất công chà đạp con người. 
           Trên một nền tảng nhân đạo chủ nghĩa vững chãi, với tài năng  điêu luyện, sự lựa chọn thể truyện thơ kết hợp nhuần nhuyễn với chất tự  sự và trữ tình, với sự am hiểu đồng thời cả ngôn ngữ bình dân cũng như  ngôn ngữ văn học bác học, Nguyễn Du đã sáng tạo một kiệt tác độc nhất vô  nhị của văn học trung đại Việt Nam. Qua hình tượng Thuý Kiều, cái mới  trong quan điểm nghệ thuật về con người và cá nhân của Nguyễn Du được  bộc lộ khá rõ nét. Ông đề cao, cảm thông sâu sắc đối với cuộc sống và  con người, đặc biệt là những con người nhỏ bé, bất hạnh, những người phụ  nữ. Những con người vốn bị coi rẻ trong xã hội vẫn được ông đề cập đến  một cách trân trọng, thương yêu. Đồng thời ông cũng khái quát bản chất  tàn bạo của xã hội phong kiến, bộc lộ sự phẫn nộ đối với những kẻ chỉ vì  đồng tiền mà hãm hại người khác, chà đạp lên nhâm phẩm của người khác.  Ông là người đầu tiên trong văn học trung đại đã nêu lên một cách tập  trung vấn đề về thân phận những người phụ nữ có sắc đẹp và tài năng văn  chương nghệ thuật. Ông đã đề cập đến một số vấn đề rất mới nhưng cũng  rất quan trọng của chủ nghĩa nhân đạo trong văn học: xã hội cần phải  trân trọng những giá trị tinh thần, do đó cần phải trân trọng những chủ  thể đã sáng tạo ra những giá trị tinh thần đó. “Truyện Kiều” thấm đẫm  tinh thần ngợi ca, trân trọng vẻ đẹp kì diệu của tình yêu đôi lứa. 
 
Tham khảo thêm : 
Qua việc tìm hiểu cốt truyện và các đoạn trích trong SGK ngữ văn  9, tập I, em hãy phân tích nhân vật Thuý Kiều để làm nổi bật giá trị  nhân đạo của Truyện Kiều. 
 
Kiệt tác truyền Kiều của  đại thi hào Ng.Du có 2 giá trị lớn là giá trị hiện thực và giá trị nhân  đạo. Truyện Kiều là bức tranh hiện thực về một xã hội bất công, tàn bạo  (nửa cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX - cuối Lê đầu Nguyễn), là tiếng  nói của thương cảm trước số phận (thời đại) bi kịch của con người, tiếng  nói lên án, tố cáo những thế lực xấu xa, tiếng nói khẳng định, đề cao  tài năng, nhân phẩm và những khát vọng chân chính của con người như khát  vọng về quyền sống, khát vọng tự do, công lý, khát vọng tình yêu hạnh  phúc...   
 
Tiếng nói nhân đạo ấy toát lên từ hình tượng  nhân vật Thuý Kiều trong truyện Thuý Kiều. Thuý Kiều là hiện thân của  nổi đau và bất hạnh. Nàng là một người con gái tài sắc, giàu tình cảm  nhưng bị xã hội phong kiến vùi dập, đoạ đày.   
Nhân vật Thuý  Kiều là hiện thân những bi kịch của người phụ nữ trong xã hội phong kiến  trước đây. Đời Kiều là một tấm gương oan khổ. Số phận Kiều hội đủ những  bi kịch của người phụ nữ. Tuy nhiên hai bi kịch lớn nhất ở Kiều là bi  kịch tình yêu tan vỡ và bi kịch bị chà đạp nhân phẩm.  
 
Tình  yêu Kim Trọng- Thuý Kiều là một tình yêu lí tưởng với “Người quốc  sắc,kẻ thiên tài”, nhưng cuối cùng “giữa đường đứt gánh tương tư”, “nước  chảy hoa trôi lỡ làng”. Tình yêu tan vỡ và không bao giờ hàn gắn  được-tuy “màn đoàn viên” có hậu về cơ bản cũng chỉ là “một cung gió thảm  mưa sầu”.Hạnh phúc nàng toan được nắm trong tay thì cuộc đời cướp mất.   
 
Kiều  là người luôn có ý thức về nhân phẩm nhưng cuối cùng lại bị chà đạp về  nhân phẩm. Nàng trở thành “món hàng” để kẻ buôn người họ Mã “cò kè bớt  một thêm hai”. Rồi nàng phải thất thân với những kẻ như Mã Giám Sinh,  phải “Thanh lâu hai lượt thanh y hai lần”- Nổi đau nhất của cuộc đời  Kiều chính là: “Thân lươn bao quản lần đầu- chút lòng trinh bạch từ sau  xin chừa”. Có nổi đau nào lớn hơn khi con người trọng nhân phẩm, luôn có  ý thức về nhân phẩm mà cuối cùng phải tuyên bố từ bỏ nhân phẩm?   
 
Đời  Kiều không phải chỉ là một tấm bi kịch, mà là những chuổi dài những bi  kịch nối tiếp nhau, mỗi lần nàng cố cất đầu ra khỏi bùn nhơ là một lần  bị dúi xuống, bị đạp xuống sâu thêm một tầng nữa.    
 
Thuý  Kiều là hiện thân của một vẻ đẹp nhan sắc, tài hoa. Sắc và tài của Kiều  đã đạt tới mức lí tưởng. Thể hiện vẻ đẹp, tài năng của Kiều Ng.Du đã sử  dụng bút pháp ước lệ của văn học cổ có phần lí tưởng hoá để trân trọng  một vẽ đẹp. “ Một hai nghiêng nước nghiêng thành-sắc đành đồi một tài  đành hoạ hai”.   
 
Tâm hồn đẹp đẽ của người con gái họ Vương  thể hiện ở tấm lòng vị tha, nhân hậu. Nàng hi sinh tình yêu để cứu gia  đình, cha mẹ. Khi ở lầu Ngưng Bích, Kiều nhớ tới cha mẹ với những tình  cảm chân thực. Nàng tưởng tượng bóng dáng tội nghiệp “Tựa cửa hôm mai”  của người sinh dưỡng Nàng. Kiều day dứt không nguôi vì một nổi là không  được chăm sóc cha mẹ già: “Quạt nồng ấm lạnh những ai đó giờ”. Thuý Kiều  là người chí tình chí nghĩa “Ơn ai một chút chẳng quên”. Khi có điều  kiện, nàng đã trả ơn, hậu tạ những người cưu mang mình, nhưng nàng vẫn  thấy công ơn đó không gì có thể đền đáp nổi “Nghìn vàng gọi chút lễ  thường-mà lòng phiếu mẫu mấy vàng cho cân”.   
 
Thuý Kiều là hiện thân của nổi khát vọng tình yêu tự do, khát vọng hạnh phúc và khát vọng về quyền sống.   
Khát  vọng tình yêu tự do đậm màu sắc lãng mạn được thể hiện qua mối quan hệ  Thuý Kiều- Kim Trọng. Mới gặp chàng Kim lần đầu, hai bên chưa tiện nói  với nhau một lời, mà mối tình không lời ấy đã như một chén rượu nồng,  khiến người ta choáng váng đê mê:  
“Tình trong như đã mặt ngoài còn e  
Chập chờn cơn tỉnh cơn mê...”  
Yêu  nhau nàng chủ động xây dựng tương lai với người yêu. Gót chân nàng  thoăn thoắt đi sang nhà Kim Trọng, cái hình ảnh nàng “Xăm xăm băng nẻo  vườn khuya một mình” Thật là nhiệt thành cho một mối tình đầu trong  trắng. Ng.Du đã dành tất cả tài năng và tâm huyết để viết lên một bản  tình ca say đắm có một khong hai trong lịch sử văn học Việt Nam.  
 
Mối  tình Kim-Kiều vượt ra ngoài lễ giáo phong kiến bằng tình yêu tự do ,  chủ động của hai người. Khác với nhiều người phụ nữ xưa phải chịu sự sắp  đặt của cha mẹ, Kiều chủ động đến với tình yêu theo tiếng gọi của trái  tim. Kiều táo bạo, chủ động nhưng đồng thời cũng là người thuỷ chung  nhất trong tình yêu.   
Khát vọng về hạnh phúc, về quyền sống đã  đưa Kiều trở thành đại diện cho con người bị áp bức vùng lên làm chủ số  phận của mình trong tư thế chiến tháng, tư thế chính nghĩa:   
“Nàng rằng: Lồng lộng trời cao  
Hại nhân nhân hại sự nào tại ta”.  
 
Ở  đây, Thuý Kiều đẫ gặp gở bao nhiêu người phụ nữ bị áp bức khác vùng lên  đòi quyền sống, đòi lẽ công bằng, trừng trị kẻ ác. “Cái thế giằng co  giữa sự sống và sự chết ở trong Tấm Cám, Thạch Sanh, trong nhiều truyện  nôm khuyết danh khác cũng như trong truyện Kiều, về căn bản nào có khác  gì nhau, chỉ khác... Một bên nhiều khi con người mượn yếu tố thần linh  phụ trợ, một bên đã vươn tới tư tưởng trị nhân dân và con người quyết  định theo công lí của mình”- (Cao Huy Đỉnh)   
Với nhân vật Thuý  Kiều Ng.Du là nhà nhân đạo chủ nghĩa rất mực yêu thương rất mực đề cao  con người, đề cao những khát vọng chân chính của con người- đặc biệt là  thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến đầy rẫy bất công, tàn bạo  và lễ giáo phong kiến 
  
 
 
 |  
  
 
		
		
		
 
  
 | 
 |   
 
    BÁO LỖI BÀI VIẾT
 Hãy gửi cốc trà đá cho TTB tài khoản ngân hàng phía dưới hoặc paypal : 
    paypalme/tuthienbao
 Giúp có kinh phí duy trì Free  
 
 
TÌM BÀI VIẾT KHÁC SEARCH TRÊN THANH TìM KIẾM PHÍA TRÊN WEB 
 
 
		
		
		
			
			
			
			
				 
			
			
			
			
			
			
			
				
			
			
			
		 
	
	 | 
 
 
 
 
	 
	
		
	
	
		
 
  	 	 
 
	
ADS
	
	
 
 
	
	
Miễn trừ trách nhiệm.NẾU CÓ ĐIỀU KIỆN HÃY MUA SÁCH ỦNG HỘ NHÀ XUẤT BẢN 
© Tuthienbao.com- TTB chúng tôi không cung cấp chức năng đăng ký thành viên để viết bài hay bình luận - Nếu có khiếu nại chung tôi sẽ xử lý.Mọi dữ liệu về diễn đàn trên website này đều được chúng tôi và các thành viên tham gia website tổng hợp từ  tất cả các trang website .Do đó, chúng tôi không chịu trách nhiệm về những dữ liệu được chia sẻ tại đây.Truyện Nội Dung được chia sẻ chỉ với mục đích giải trí, phi lợi nhuận. Mọi bản quyền thuộc về tác giả và nhà xuất bản gốc.Nếu có yêu cầu gỡ bỏ, xin liên hệ qua email
  
truyen tranh,
truyen tranh 8,truyen tranh hay,
truyen tranh online,
ebook,ebook ngon tinh,
van hoc lop 5,van hoc lop 6,van hoc lop 7,van hoc lop 8,van hoc lop 9,van hoc lop 10,van hoc lop 11,van hoc lop 12,
 
     | 
  
 
 
Powered by: vBulletin v3.8.2
 Copyright ©2000-2025, Jelsoft Enterprises Ltd.
 
	
	
		
	
	
 
      |