I. VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM
 1. Tác giả
 Nhà thơ Vũ Đình Liên sinh ngày 12 tháng 11 năm 1913, quê ở Châu Khê, Bình Giang, Hải Dương, mất ngày 18 tháng 1 năm 1996.
 Vũ Đình Liên nổi tiếng với bài thơ 
Ông đồ từ phong trào Thơ  mới. Nhiều năm ông làm nghề dạy học. Từng là Chủ nhiệm khoa tiếng Pháp,  Trường Đại học Sư phạm Ngoại ngữ, là thành viên nhóm văn học Lê Quý Đôn  (gồm: Lê Thước, Trương Chính, Lê Trí Viễn
…).
 Nhà thơ Vũ Đình Liên đã xuất bản: 
Đôi mắt (thơ, 1957); 
Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam (nghiên cứu, 1957); 
Nguyễn Đình Chiểu (nghiên cứu, 1957); 
Thơ Bô-đơ-le (dịch thuật, 1995).
 Tập thơ Bô-đơ-le – công trình 40 năm lao động dịch thuật say mê và  nghiên cứu của ông đã được tặng thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam (1996).
 
2. Tác phẩm
 Ông đồ là một trong những bài thơ hay nhất, nổi tiếng nhất của  Vũ Đình Liên và cũng là của phong trào Thơ mới. Sử dụng thể thơ năm chữ  và ngôn ngữ gợi cảm, giàu tính tạo hình, Vũ Đình Liên đã miêu tả ông đồ  ngồi viết chữ thuê trên phố ngày Tết, từ lúc ông còn đắc chí đến lúc  hình ảnh ông mờ dần rồi xa khuất giữa bức tranh xuân.
 II. KIẾN THỨC CƠ BẢN
 1. Trong hai khổ thơ đầu, hình ảnh ông đồ viết chữ nho ngày tết là một hình ảnh đẹp. Đấy là cái thời đắc ý của ông.
 Ông xuất hiện cùng hoa đào, với mực tàu giấy đỏ. Ông đem lại niềm vui  cho mọi người khi viết câu đối tết. Bao nhiêu người nhờ đến ông. Bao  nhiêu người tấm tắc khen ngợi ông. Ông viết câu đối mà như người biểu  diễn thư pháp :
 
 Hoa tay thảo những nét
 Như phượng múa rồng bay
 Khổ thơ thứ ba và thứ tư vẫn diễn tả không gian ấy, thời gian ấy. Song là một không khí khác. 
Nhưng mỗi năm mỗi vắng.  Không phải là vắng ngắt ngay lập tức, mà theo thời gian. Người cần đến  ông cứ giảm dần. Và bây giờ thì hầu như không thấy họ : Người thuê viết  nay đâu ? Giấy cũng buồn vì cảnh này, mực cũng sầu vì không được dùng  vào việc viết. Ông đồ vẫn có mặt, nhưng người ta đã không nhận ra ông.  Người ta chẳng còn chú ý đến ông nữa. Bởi thế mà ông như nhoà lẫn trong  lá vàng và mưa bụi. Sự khác nhau của hai hình ảnh ông đồ chủ yếu ở vị  trí của ông với công chúng. Trước ông ở trung tâm của sự chú ý. Nay ông  ra ngoài rìa của sự chú ý, gần như bị lãng quên.
 Sự khác nhau này gợi cho người đọc cảm xúc thương cảm cho ông đồ, ông  đang bị gạt ra rìa cuộc sống, ông đang bị lãng quên cùng với những gì  gắn với chữ Hán, với tâm lí chuộng thú chơi câu đối một thời. Hai câu  thơ:
 
Lá vàng rơi trên giấy
 Ngoài giời mưa bụi bay
 không chỉ là hai câu thơ tả cảnh, đó là hai câu thơ tả tâm trạng, tả  cảnh ngộ của ông đồ. Lá vàng rơi, một biểu hiện của sự tàn úa. Lại kèm  với mưa bụi bay. Lạnh lẽo và buồn thảm.
 2. Tâm tư của nhà thơ thể hiện qua bài thơ một cách kín đáo. Tác giả  đã mô tả hai cảnh đối lập và gợi niềm thương cảm ông đồ một cách gián  tiếp. Chỉ đến phần cuối bài thơ, khi không còn thấy ông đồ, tác giả mới  thốt lên :
 
Những người muôn năm cũ
 Hồn ở đâu bây giờ
 Không chỉ cảm thương cho ông đồ, mà còn là cảm thương một lớp người  đã trở thành quá khứ. Hơn thế nữa, sự hoài cổ còn là hoài niệm một vẻ  đẹp văn hoá gắn với những giá trị tinh thần truyền thống. Chính vì thế  mà bài thơ có sức lay động sâu xa.
 3. Không chỉ hay ở nội dung hoài niệm, bài thơ còn hay ở nghệ thuật.  Trước hết là dựng cảnh tương phản. Một bên tấp nập đông vui, một bên  buồn bã, hiu hắt. một bên nét chữ cũng như bay múa : phượng múa, rồng  bay ; bên kia cả giấy cũng buồn, cả mực cũng sầu, thêm nữa lại kèm lá  vàng, mưa bụi.
 Bài thơ được cấu trúc theo kiểu kết cấu đầu cuối tương ứng. Cũng là  thời gian ngày áp tết, cũng là không gian mùa xuân, cũng vẫn có hoa đào  nở. Nhưng hình ảnh ông đồ thì cứ nhạt nhoà dần. Cuối cùng thì không thấy  ông đồ nữa. Ông đã thành “ông đồ xưa”. Không phải là ông đồ cũ. Ông đã  thành xưa, như đã không còn tồn tại nữa.
 Bài thơ làm theo thể năm chữ, thể thơ ngũ ngôn vốn có từ lâu. Lời lẽ  của bài thơ dung dị, không có gì tân kì. Nhưng hình ảnh thơ gợi cảm.  Hình ảnh :
 
Hoa tay thảo những nét
 Như phượng múa, rồng bay
 thật sinh động. Những hình ảnh :
 
Giấy đỏ buồn không thắm
 Mực đọng trong nghiên sầu
 Lá vàng rơi trên giấy
 Ngoài giời mưa bụi bay 
 không phải chỉ là hình ảnh thiên nhiên, mà là thiên nhiên nhuốm đầy tâm trạng.
 4. Những câu thơ :
 
-                                        Giấy đỏ buồn không thắm
 Mực đọng trong nghiên sầu…
 -                                        Lá vàng rơi trên giấy
 Ngoài giời mưa bụi bay
 là nhưng câu thơ không chỉ tả cảnh. Tác giả đã dùng biện pháp nhân  hoá làm cho giấy, mực, những vật vô tri như cũng biết sầu buồn. Phải  chăng, cái buồn của bản thân ông đồ cũng làm lây nhiễm sang cảnh vật ?  Lá vàng, mưa bụi thật là buồn. Lá lại rơi trên giấy không thắm, mưa bụi  lại làm cho cảnh vật như nhoè mờ. Ông đồ đã bị lãng quên, càng bị khuất  lấp. Những câu thơ như thế đã làm cho bài thơ tạo được cho người đọc ấn  tượng và ám ảnh sâu sắc.
 
III. RÈN LUYỆN KỸ NĂNG
 Bài thơ này được trải ra trên nhiều cung bậc cảm xúc, không khó hình  dung nhưng cũng không dễ thể hiện. Có thể lựa chọn giọng đọc theo từng  khổ thơ như sau:
 - Khổ thứ nhất: thể hiện giọng đọc nhẹ nhàng, bình thản.
 - Khổ thứ hai: thể hiện giọng đọc miêu tả.
 - Khổ thứ ba: giọng đọc chùng xuống, chậm dần lại.
 - Khổ năm: đọc thật chậm, giọng buồn thương, da diết