I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
 1. Về khái niệm truyện cười
 a) Truyện cười là những truyện dân gian ngắn, có kết cấu chặt chẽ,  kết thúc bất ngờ, kể về những sự việc, hành vi trái tự nhiên của con  người, có tác dụng gây cười, nhằm mục đích giải trí và phê phán xã hội.
 b) Truyện cười thường khai thác những mâu thuẫn trái tự nhiên những  hành động kệch cỡm, rởm đời hay dốt nát trong cuộc sống. Truyện thường  ngắn nhưng chặt chẽ, ít các chi tiết rườm rà, mâu thuẫn phát triển nhanh  và kết thúc bất ngờ. Truyện cười mang ý nghĩa giải trí và giáo dục.  Ngoài tiếng cười, nó tập trung phê phán những thói hư tật xấu trong nội  bộ nhân dân, vì thế mới có ý kiến cho rằng, truyện cười không chỉ là sản  phẩm của óc khôi hài mà còn là một thứ vũ khí đấu tranh đắc dụng của  nhân dân ta.
 c) Truyện cười có hai loại: Truyện khôi hài và truyện trào phúng.  Truyện khôi hài chủ yếu nhằm mục đích giải trí (tuy nhiên vẫn bao hàm  giá trị giáo dục). Truyện trào phúng được sáng tác với mục đích phê  phán. Đối tượng phê phán phần lớn là các nhân vật thuộc tầng lớp trên  trong xã  hội nông thôn Việt Nam xưa (như: bọn quan lại bất tài, tham  nhũng…). Cũng có khá nhiều truyện cười phê phán thói hư tật xấu trong  nội bộ nhân dân.
 2. Về hai văn bản 
Tam đại con gà và 
Nhưng nó phải bằng hai mày.
 Hai truyện cười này đều thuộc loại truyện trào phúng. Đối tượng của  sự phê phán là thầy đồ dốt nói chữ và bọn quan lại tham nhũng ở địa  phương.
 Truyện 
Tam đại con gà hướng sự châm biếm, đả kích vào những kẻ  “xấu hay làm tốt, dốt hay nói chữ”. Cái xấu, cái dốt càng che đậy càng  dễ lộ ra, kệch cỡm và đáng cười hơn rất nhiều lần.
 Truyện 
Nhưng nó phải bằng hai mày lại giống như một màn kịch  ngắn. Khai thác triệt để sự kết hợp giữa lời nói với cử chỉ và với lối  chơi chữ độc đáo, truyện đã vạch trần hành động tham nhũng trắng trợn  của thầy lí. Đồng thời, truyện cũng nói lên tình cảnh vừa bi hài, vừa  đáng thương, đáng giận của những người lao động.
 
II. RÈN KĨ NĂNG
 1. Trong truyện 
Tam đại con gà, “ông thầy” liên tiếp bị đưa vào hai tình huống:
 - Thầy đồ đi dạy học trò nhưng “thấy mặt chữ nhiều nét rắc rối, không biết chữ gì, học trò lại hơi gấp, thầy cuống, nói liều…”.
 - Khi bị người nhà phát hiện dạy sai, thầy ra sức bao biện để chối tội và giấu dốt.
 Trong lần thứ nhất, để “giải quyết tình huống”, “ông thầy” đã nhắm  mắt chọn cách nói liều. Hài ước hơn khi ngay sau đó, “ông thầy” còn viện  đến thổ công để “chứng giám” một cách hú họa cho sự dốt nát của mình.
 Trong tình huống thứ hai, “ông thầy” đã giải quyết để bào chữa cho mình bằng một cái “lí sự cùn”.
 Qua chỉ hai tình huống, cái bản chất “dốt” của thầy đồ đã được bộc lộ  rõ ra. Cái mâu thuẫn trái tự nhiên ở nhân vật này là dốt >< khoe  giỏi. Thầy đồ đi dạy học mà dốt đến mức cái chữ tối thiểu trong sách  cũng không biết, không đọc được. Dốt như vậy mà thầy đồ vẫn ham khoe  giỏi (sau khi khấn thổ công, “thầy lấy làm đắc chí lắm, hôm sau bệ vệ  ngồi trên giường, bảo trẻ đọc cho to”). Sự hài ước của câu chuyện lên  đến đỉnh điểm khi thầy đồ, dù đã biết mình dạy dốt vẫn cứ nhất quyết bao  biện cho mình bằng một cái “lí sự cùn” hoàn toàn không thể tin tưởng  được. Tất cả những hành động cố gắng “lấp liếm” cái dốt này, quả thực  chỉ làm cho thầy đồ càng thảm hại hơn thôi.
 2. Qua hình ảnh thầy đồ trong truyện 
Tam đại con gà, truyện  phê phán một tật xấu trong nội bộ nhân dân, phê phán những người dốt mà  không chịu học hỏi, dốt mà cứ cố tình che đậy sự dốt nát của mình. Tuy  nhiên cái cười trong truyện ngắn này chủ yếu vẫn mang tính chất giải trí  – cười sự ngây ngô và liều lĩnh của thầy đồ, chứ chưa tới mức cười nhằm  đả kích và triệt tiêu đối tượng.
 3. Về truyện 
Nhưng nó phải bằng hai mày
 a) Mối quan hệ giữa Cải và thầy lí trước khi xử kiện là mối quan hệ  đã được xếp đặt rồi (Cải đã lót tiền trước cho thầy lí năm đồng). Cải cứ  nghĩ là quan sẽ cho mình được kiện nên rất ung dung. Tuy nhiên không  ngờ khi xử kiện, Cải lại bị thầy lí tuyên bố đánh mười roi. Cải từ thế  chủ động chuyển hoàn toàn sang bị động và không thể nói tiếp được lời  nào.
 b) Sự độc đáo của câu chuyện chính là sự kết hợp giữa hai thứ “ngôn  ngữ”. Ngôn ngữ bằng lời nói là ngôn ngữ công khai, nói cho tất cả những  người có mặt ở đó nghe. Nhưng thứ “ngôn ngữ” bằng động tác thì chỉ có  thầy lí và Cải mới hiểu được. Nếu Cải xòe ra năm ngón tay và “ngầm” ra  hiệu với thầy lí đó là “lẽ phải” thì thày lí đã đáp lời nhanh chóng bằng  việc xòe năm ngón tay trái úp lên năm ngón tay mặt, ý nói “lẽ phải” kia  đã được nhân đôi. Sự thú vị được người đọc nhận ra khi tìm thấy sợi dây  liên hệ thông suốt giữa: lẽ phải – những ngón tay và những đồng tiền.
 Ý nghĩa tố cáo của truyện chính là ở chỗ: lẽ phải đối với người xử  kiện được tính bằng tiền. Đồng tiền đo lẽ phải, tiền nhiều lẽ phải  nhiều, tiền ít lẽ phải ít.
 4. Lời nói của thầy lí ở cuối truyện 
Nhưng nó phải bằng hai mày  là một sự vận dụng độc đáo và sáng tạo nghệ thuật chơi ngữ gây cười.  “Phải” là một từ chỉ tính chất, đem ghép nó với một từ chỉ số lượng  (phải bằng hai) tưởng như vô lí. Thế nhưng khi ta liên tưởng đến năm  đồng và mười đồng tiền đút lót của Ngô và Cải, ta lại thấy nó hoàn toàn  hợp lí. Lời phán quyết của thầy lí “vô lí” trong xử kiện nhưng lại có lí  trong mối quan hệ (tiền bạc) với các nhân vật. Chính việc “đánh lộn  sòng” này đã tạo ra tiếng cười hài ước và sự thích thú trong quá trình  “giải mã” tác phẩm của mỗi chúng ta.
 5. Ở truyện 
Nhưng nó phải bằng hai mày, nhân vật bị thất bại  trong vụ kiện là nhân vật Cải. Cải bị bất ngờ nên không kịp trở tay vì  thế mà bị rơi vào tình trạng thảm hại (vừa mất tiền lại vừa bị đánh).  Thế nhưng câu chuyện chính là lời phê phán cả hai nhân vật. Sự tham lam  của bọn quan lại sẽ càng ngày càng tráo trở hơn nếu còn có những người  như Ngô và Cải. Hành vi tiêu cực của chính họ là nguyên nhân làm cho họ  trở nên thảm hại. Trong sự việc này, họ là những kẻ đáng thương nhưng  cũng là những người đáng giận.
 6. Có thể thấy rõ đặc trưng thể loại của truyện cười qua việc phân  tích lời nói và hành động của nhân vật trong hai truyện Tam đại con gà  và Nhưng nó phải bằng hai mày.
 a)  Đối với truyện 
Tam đại con gà
 Câu chuyện có nhiều hành động và lời nói của thầy đồ có tác dụng gây cười:
 - Các hành động của “Ông thầy”:
 + Bảo học trò đọc khe khẽ (vì chưa biết mình dạy đúng hay sai nên phải “thận trọng” để giấu dốt).
 + Xin đài âm dương 3 lần (hành động ngược đời – đúng ra phải hỏi lại  người có hiểu biết hơn mình để giảng giải cho học trò rõ). Hành động này  hàm ý “Ông thầy” coi cái chuyện dạy học hệ trọng này chẳng khác gì  chuyện đánh bạc cầu may.
 + Ngồi bệ vệ trên giường, bảo học trò đọc to (đắc chí với sự ngốc nghếch của mình mà không biết).
 - Lời nói của thầy:
 + Dủ dỉ là con dù dì
 + Dạy cho cháu biết đến tận tam đại con gà
 + Dủ dỉ là chị con công, con công là ông con gà.
 Tất cả các lời nói này đều cho thấy sự ngốc nghếch và phi lí trong  những ‘bài học” và lời nói của “Ông thầy”. Xét về mức độ, ta thấy hành  động và lời nói của nhân vật được nhà văn sắp xếp theo trật tự tăng  tiến. Mức độ phi lí và sự nực cười của lời nói và hành động ngày càng  được đẩy lên cao.
 b) Đối với truyện 
Nhưng nó phải bằng hai mày
 - Hành động của nhân vật Cải và Ngô: hai người đều tìm cách đưa đút lót trước cho thày lí mà không rõ hành động của người kia.
 - Thày lí thì tham lam nên nhận tiền của cả hai người. Khi xử kiện lại lấy bàn tay để ra hiệu.
 - Lời nói hài ước của các nhân vật: “ Xin xét lại, lẽ phải về con  mà!”(Cải nói). “Tao biết mày phải…nhưng nó lại phải…bằng hai mày!” (lời  đáp của thầy lí)
 c) Từ hai truyện trên, có thể khái quát mấy đặc trưng chung của thể loại truyện cười:
 - Khai thác những sự việc, hành vi, thói xấu của một bộ phận đối tượng trong dân gian.
 - Chứa đựng những mâu thuẫn trái quy luật tự nhiên và tiềm ẩn những yếu tố gây cười.
 - Dung lượng ngắn, kết cấu lôgíc chặt chẽ và kết thúc bằng những sự việc hoặc liên tưởng bất ngờ.