I/ Tìm hiểu chung:
1.Tác giả : Quang Dũng (1921-1988)
- Tên thật là Bùi Đình Diệm.
- Quê quán Phượng Trì, Đan Phương, Hà Tây.
- Cuộc đời: Từng gia nhập quân đội, làm thơ, viết văn, biên tập viên nhà xuất bản
- Con người : Là một nghệ sĩ đa tài “ Cầm, kì, thi, hoạ”, nhưng trước hết là một nhà thơ.
- Phong cách thơ: Hồn hậu, phóng khoáng, hào hoa, lãng mạn.
2. Bài thơ Tây Tiến:
a) Hoàn cảnh ra đời:
* Tây Tiến là bài thơ tiêu biểu cho đời thơ Quang Dũng, thể hiện sâu sắc phong cách thơ QD, in trong tập thơ “Mây đầu ô”(1986).
b) Bố cục bài thơ
+ Đoạn 1: Nhớ về những cuộc hành quân của đoàn quân Tây Tiến và khung cảnh thiên nhiên miền Tây.
+ Đoạn 2: Nhớ những kỉ niệm đẹp (Đêm liên hoan và cảnh sông nước miền Tây thơ mộng)
+ Đoạn 3: Nhớ về những người đồng đội Tây Tiến.
+ Đoạn 4:Lời thề gắn bó với Tây Tiến và miền Tây.
II/ Đọc hiểu bài thơ:
1. Đoạn 1 : Nỗi nhớ về những chặng đường hành quân của bộ đội Tây Tiến và khung cảnh núi rừng miền Tây.
- Hai câu thơ mở đầu:
“ Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi...”
=> Hình ảnh “Sông Mã” như gợi thức nỗi nhớ ùa về trong tâm hồn nhà thơ.
=> Nhớ “Chơi vơi” ( 2 thanh bằng, nhẹ, lan toả, không hình không khối.
Hồn  thơ Quang Dũng như đang bơi trong một biển nhớ bát ngát mênh mông,  không bờ, không bến, tràn ngập, chơi vơi...Câu thơ như khơi dòng cho  nguồn thác kí ức hiện về.
- Bức tranh thiên nhiên miền Tây Vừa hùng vĩ, hiểm trở , hoang vu, nghiệt ngã vừa độc đáo thú vị:
+ Hùng vĩ, hiểm trở (Mở ra trong nhiều chiều không gian, thời gian)
> Nhiều tên đất lạ lẫm, gợi 1 vùng xa xôi, hẻo lánh: Sông Mã, Sài Khao, Mường Lát, Mường Hịch, Pha Luông, Mai Châu...
>Nhiều đèo dốc hiểm trở:
“ Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi...”
=>  Sử dụng từ láy giàu chất tạo hình, gợi tả, gợi cảm, những câu thơ toàn  thanh trắc ...=> Một bức tranh hoành tráng với tất cả sự hiểm trở và  dữ dội, hoang vu và heo hút của núi rừng miền Tây
+ Nhiều vẻ hoang dại, bí ẩn, khắc nghiêt: Với mưa rừng, “Sương lấp đoàn quân mỏi”, “Thác gầm thét”, “Cọp trêu người.”
- Hình ảnh đoàn quân Tây Tiến trong đoạn thơ :
+ Đó là những chiến sĩ anh hùng bất khuất không quản ngại vượt qua bao chặng đường gian khổ , bao nhiêu hi sinh mất mát lớn lao:
“ Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời...”
=> Nổi bật chất bi tráng
+ Nhưng đó còn là những chàng trai hào hoa lãng mạn tinh nghịch với bao hăm hở khám phả, chinh phục.
-  Hai câu kết đoạn thơ : “ Nhớ ôi...nếp xôi”=> Gợi không khí đầm ấm  tình quân dân, như xua đi bao mệt mỏi của cuộc hành trình,tạo cảm giác  êm dịu, ấm áp, chuẩn bị tâm thế cho đoạn sau
2. Đoạn 2: Nhớ về những kỉ niệm đẹp - một vùng kí ức mĩ lệ, thơ mộng, trữ tình
+  Cảnh một đêm liên hoan văn nghệ: Những chàng trai Tây Tiến cùng những  cô gái miền Tây như hoà quyên trong một không gian lãng mạn với
> Đường nét uyển chuyển, man dại
> Không khí sôi nổi, tình tứ
> Âm thanh sắc màu hoà quyện ...
=>Cảnh vật và con người như hoà trong men say, tình tứ, ngây ngất, rạo rực.
+ Cảnh sông nước miền Tây hoang sơ, mênh mang huyền ảo: “Người đi Châu Mộc...Hoa đong đưa”
>  Không gian dòng sông trong một buổi chiều sương huyền ảo, thơ mộng vừa  hoang dại như một bờ tiền sử-> Gợi sắc màu cổ tích huyền thoại.
> Nổi bật lên trên nền không gian ấy là dáng hình mềm mại uyển chuyển của cô gái miền Tây trên chiếc thuyền độc mộc.
=> Thiên nhiên hoang sơ nhưng vẫn rất gần gũi gợi bao cảm xúc sâu lắng.
3. Đoạn 3: Chân dung người lính Tây Tiến.
+ Chân dung : (Gương mặt chung của những người lính TT qua kí ức của QD)
- Ngoại hình : Toát lên vẻ oai phong, dữ dằn qua cái nhìn lãng mạn của QD
- Tâm hồn: lãng mạn, mơ mộng, khát khao yêu đương
+ Sự hi sinh mất mát:
-Từ Hán Việt: Biên cương, viễn xứ, độc hành...-> Gợi âm hưởng cổ kính, trang trọng.
- Hình ảnh về sự hi sinh lặp lại ở khổ1, nhưng được nâng lên tầm khái quát mang tầm vóc sử thi, thần thoại
-  Sự thật bi thảm được làm mờ bằng những câu thơ gợi hình ảnh những tráng  sĩ ngày xưa ra đi vì nghĩa lớn, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng
=> Bút pháp hiện thực kết hợp lãng mạn, toát lên vẻ đẹp hào hùng và hào hoa , đậm chất bi trángcủa người lính TT
4. Đoạn kết: Lời thề sắt son
- “Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy ...”=>thời điểm mơ mộng hào hùng một đi không trở lại.
-  Câu kết ” Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi” thể hiện tinh thần “ một đi  không trở lại” => Gợi không khí một thời đại ra đi kháng chiến “thà  chết chớ lui” của tuổi trẻ VN trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc
III/ Chủ đề :
Qua bài thơ, tác giả Quang Dũng :
- Ca ngợi vẻ đẹp của người lính Tây Tiến, cũng là vẻ đẹp của những người lính trong kháng chiến chống Pháp.
- Thể hiện tình cảm sâu nặng của nhà thơ với đơn vị Tây Tiến, với cảnh vật và con người miền Tây một thời gắn bó
Bài 2:
 1. Tiểu dẫn
 
 a. Tác giả
 
 * Tác giả
 - Sinh năm 1921 và mất 1988. Tên khai sinh là Bùi Đình Diệm. Bút danh là Quang Dũng. Quê ở Phượng Trì, Đan Phượng, Hà Tây.
 - Xuất thân từ một gia đình nho học
 
 * Quá trình trưởng thành
 - Học đến bậc trung học, sau cách mạng Tháng tám 1945 nhập ngũ
 - Năm 1954, làm biên tập viên ở NXB Văn học
 - Là một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc.
 - Nhưng trước hết, Quang Dũng là một nhà thơ - một hồn thơ phóng  khoáng, lãng mạn và tài hoa. Đặc biệt khi ông viết về người lính.
 - Những tác phẩm chính: Mây đầu ô (1996). Ông được nhận Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2001.
 
 b. Bài thơ Tây tiến
 
 - Tây tiến là tên một đơn vị chủ lực, được thành lập đầu năm 1947. Đơn  vị bao gồm những thanh niên Hà Nội, lao động chân tay và giới trí thức,  QD cũng trong đoàn quân ấy. Nhiệm vụ của đơn vị là hành quân lên phía  Tây thuộc biên giới Việt – Lào, giữ vững vùng biên cương, tiêu hao sinh  lực địch, tạo điều kiện cho cuộc kháng chiến ở chiến trường Điện Biên.  Địa bàn hoạt động của Tây Tiến khá rộng, bao gồm tỉnh Sơn La, Lai Châu,  Hoà Bình, kéo sang Sầm Nưa (Lào), về tới sông Mã (Thanh Hoá). Cơ sở vật  chất thiếu thốn, địa bàn phức tạp, bệnh sổt rét rừng hoành hành. Nhưng  người lính Tây Tiến vẫn vượt qua.
 
 - Năm 1948 đơn vị Tây Tiến  giải thể, thành lập trung đoàn 52. Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác.  Rời xa đơn vị, Quang Dũng nhớ đồng đội cũ. Tại Phù Lưu Chanh một làng  thuộc tỉnh Hà Đông, Quang Dũng đã viết bài thơ này. Những ngày tháng  cùng đơn vị hành quân chiến đấu, vượt qua những gian nan, thử thách,  biết bao đồng đội đã ngã xuống ở nơi biên cương. Nỗi nhớ da diết, tình  cảm đồng đội đã thôi thúc Quang Dũng. Ông đã viết bài thơ trong hoàn  cảnh ấy. Bài thơ có tiêu đề Nhớ Tây Tiến. Năm 1975 khi cho in lại, Quang  Dũng đặt tên cho bài thơ là Tây Tiến. Bài thơ rút trong tập Mây đầu ô.
 
 - Mục đích sáng tác bài thơ là ghi lại những kỉ niệm một thời của những  người lính Tây Tiến. Đó là những ngày hành quân chiến đấu gian khổ  trong địa bàn dốc cao, vực thẳm, bệnh sốt rét rừng hoành hành. Nhiều  đồng đội đã hi sinh. Mặt khác bài thơ khắc hoạ người lính với tinh thần  lạc quan, chiến đấu dũng cảm với lí tưởng “chiến trường đi chẳng tiếc  trời xanh”. Bài thơ cũng ghi lại những kỉ niệm đẹp về tinh thần và cảnh  thiên nhiên núi rừng Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội và mĩ lệ. Có nhiều bài thơ  viết về anh bộ đội Cụ Hồ thời chống Pháp, chống Mĩ. Nhưng với bài Tây  Tiến đã để lại những cảm nhận đẹp trong lòng người đọc về người lính một  thời hào hùng, hào hoa và bi tráng.
 
 - Bài thơ miêu tả nỗi nhớ  da diết của tác giả về đồng đội trong những chặng đường hành quân chiến  đấu gian khổ, đầy thử thách hi sinh trên cái nền của thiên nhiên Tây  Bắc, Bắc Bộ hùng vĩ, dữ dội. Đồng thời thể hiện những kỉ niệm đẹp về  tình quân dân và khắc sâu lí tưởng chiến đấu của người lính Tây Tiến
 
 - Bài thơ chia làm 3 đoạn:
 
 + Đoạn một từ đầu đến “Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”. Ý đoạn này là nỗi  nhớ của tác giả về cuộc hành quân, chiến đấu gian khổ của người lính  Tây Tiến trên cái nền của thiên nhiên Tây Bắc, Bắc Bộ vừa hùng vĩ, vừa  dằn dữ.
 + Đoạn hai tiếp đó đến “Khúc độc hành”. Nhớ lại những đêm  liên hoan đổt lửa trại, tình cảm quân dân trên cái nền thơ mộng của núi  rừng
 + Đoạn ba: còn lại. Khắc hoạ chân dung người lính Tây Tiến. Sự  hi sinh mang đầy chất bi tráng và khắc sâu lí tưởng chiến đấu của người  lính Tây Tiến.
 
 - Cảm hứng chính của bài thơ là cảm hứng lãng  mạn và tinh thần bi tráng. Những người lính Tây Tiến phần lớn là những  người Hà Nội mang đậm chất hào hoa. Hồn thơ Quang Dũng cũng thế. Đó là  chất lãng mạn của những chàng trai kinh thành.
 
 + Khung cảnh núi  rừng miền Tây Bắc, Bắc Bộ tuy dữ dội ác liệt nhưng cũng đầy chất thơ  mộng, trữ tình, các chiến sĩ Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn của những  những chiến sĩ “vung gươm ra xa trường”. Hồn thơ vốn dĩ lãng mạn của  Quang Dũng bắt gặp khung cảnh thiên nhiên này tất yếu thể hiện cảm hứng  lãng mạn.
 
 + Chiến trường ác liệt, hoang vu nhiều thú dữ, bệnh  sổt rét rừng gây nhiều tử vong. Đó là hiện thực khốc liệt của cuộc  chiến, là cái bi. Quang Dũng không lẫn tránh cái bi nhưng lại mang đến  âm hưởng hào hùng để bật lên thành chất bi tráng. Cả lớp trẻ thuộc đồng  đội của Quang Dũng mang sẵn trong lòng bầu máu nóng “Thề quyết tử cho tổ  quốc quyết sinh”, “một đi không trở về”, “Đâu có giặc là ta cứ đi”,  “chưa hết giặc là ta chưa về”. Lòng yêu nước như một luồng gió thổi vào  tâm hồn của họ làm cho người lính Tây Tiến trở thành hào hùng rực rỡ.  “Bài thơ này đã được khí phách của cả thời đại ùa vào chấp cánh” (Đọc  lại Mây dầu ô, Văn Long)
 
 - Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng luôn gắn bó với nhau để làm nên linh hồn, sắc diện của bài thơ.
 
 - Trọng tâm bài thơ là thiên nhiên miền Tây Bắc, Bắc Bộ dằn dữ và thơ  mộng làm nền để chân dung người lính được khắc hoạ với vẻ đẹp hào hùng,  hào hoa và khắc sâu lí tưởng chiến đấu.
 
 II. Đọc hiểu văn bản
 
 1. Mạch cảm xúc
 
 - Mạch cảm xúc của bài thơ bắt đầu từ nổi nhớ. Đó là nỗi nhớ đồng đội:
 
 Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
 Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
 
 - Sông Mã, Tây Tiến là tên gọi cụ thể. Chắc hẳn cũng gợi nhớ về những  năm tháng, miền đất, có sông, có rừng, cảm xúc của toàn bộ bài thơ. Sông  Mã đại diện cho vùng đất miền Tây. Hai hình tượng song song kết đọng  nỗi nhớ. Đó là miền Tây Bắc, Bắc Bộ và người lính Tây Tiến. Nỗi nhớ ấy  không bình thường: “Nhớ chơi vơi”. Hai tiếng “chơi vơi” tái hiện kí ức  lúc đậm, lúc nhạt. Nó bồng bềnh khó tả.Có lúc nó chợt đến bằng hình ảnh  vừa sống động, vừa lung linh.
 
 - Từ nỗi nhớ mở đầu, mạch cảm xúc  tái hiện lại cuộc hành quân chiến đấu với những thử thách, gian khổ, hi  sinh và cả tình quân dân thắm thiết. Kế đó là nỗi nhớ về những đêm liên  hoan và một vùng Châu Mộc đầy thơ mộng. Khung cảnh thiên nhiên ấy làm  nổi bật hình ảnh người lính với những cảm hứng lãng mạn anh hùng, nét  hào hoa của những chàng trai Hà Nội với tâm hồn thơ mộng và đậm chất bi  tráng. Nỗi nhớ là yếu tố liên kết ý thơ.
 
 - Nỗi nhớ gọi về, dựng  lên trong tâm trạng nhân vật trữ tình bao hình ảnh, những kỉ niệm không  kém phần sâu sắc về một thời đẹp đẽ, hào hùng của tuổi trẻ. Nỗi nhớ đã  tạo nên cảm xúc mãnh liệt. Thơ hay là thơ tạo ra cảm xúc ấy.
 
 2. Nổi nhớ đã tạc lên bức chân dung của người lính Tây Tiến
 
 a. Giữa khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ, dữ dội
 - Câu thơ 3, 4 gợi cho ta nhận thức được những địa danh tên đất, tên  làng. Đó là Sài Khao, Mường Lát, Đỉnh Sài Khao bốn mùa mây phủ.
 
 Sài khao sương lấp đoàn quân mỏi
 Mường Lát hoa về trong đêm hơi
 
 Sài Khao, Mường Lát mang vẻ hấp dẫn của xứ lạ. Câu thơ diễn tả vẻ đẹp  huyền ảo. Đoàn quân đi trên đỉnh núi cao mù sương và dừng chân ở những  bản làng, với gió núi hoa rừng… đầy lãng mạn. Nổi gian khổ vì thế cũng  vơi đi. Mặt khác trong 14 âm tiết chỉ có 3 âm tiết là thanh trắc. 11  thanh bằng tạo âm hưởng đều đều, lan toả, lung linh, huyền ảo trong nỗi  nhớ. Người đọc chỉ nhận ra núi, bản làng, hoa và sương khói bàng bạc.  Nỗi vất vả mệt mỏi dường như bị lùi đi. Người lính Tây Tiến hiện lên  giứa thiên nhiên hùng vĩ.
 
 - Nỗi nhớ như vượt ra trạng thái lung  linh, mờ ảo, chơi vơi để làm hiện lên rõ nét cuộc hành quân chiến đấu  đầy gian khổ thử thách và hi sinh:
 
 Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
 ….
 Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
 
 - Cuộc hành quân đi qua núi cao vực thẳm. Đường lên quanh co, uốn khúc,  lên cao mãi. Đường lên cao bao nhiêu lại xuống bấy nhiêu. Đặc biệt  đường hành quân qua rừng thiêng, nước độc, đầy thú dữ: “Chiều chiều oai  linh… người”.
 
 Có thể nhận ra thiên nhiên miền Tây Bắc Bắc Bộ  không chỉ hùng vĩ mà dữ dội. Từ đó càng thấu nỗi vất vả, gian khổ của  người lính Tây Tiến biết chừng nào.
 
 - Đó là nghệ thuật tạo hình và phối hợp thanh điệu.
 
 + Hình ảnh đèo dốc, vực thẳm gợi sự khó nhọc, gian khổ nhưng vẫn tìm  thấy niềm vui tinh nghịch của người lính: “Súng ngửi trời”. Lúc này,  người lính đã vượt lên những đỉnh núi cao, súng chạm mây trời. Lạc quan  lắm. Mặt khác “Ngàn thước lên cao/ngàn thước xuống” gợi ra một thực tế  lên dốc khó hơn xuống dốc. Hình ảnh “Gục lên súng bỏ quên đời” không hề  nói tới cái chết, coi cái chết nhẹ nhàng như giấc ngủ. Vả lại “bỏ quên  đời” chứ không phải là chết. Cái bi thảm bị lút đi, để cái tráng, cái bi  hùng nổi lên.
 
 + Sự phối âm cũng là một nghệ thuật độc đáo của  đoạn thơ. Câu “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm”, bảy tiếng có tới năm  tiếng thanh trắc. Sự phối hợp âm thanh này nhằm diễn tả sự khó nhọc của  người lính Tây Tiến hơn là diễn tả dốc cao, vực thẳm. Đáng lưu ý là câu  thơ “nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Câu thơ toàn vần bằng diễn tả âm  thanh của những trận mưa rừng đều đều không ngớt. Mưa ở một không gian  rộng, xa dưới chân núi trắng trời mà đoàn quân Tây Tiến hành quân trong  gió núi, mưa rừng. Sự tạo hình phổi hợp âm thanh đem đến một không gian  vừa có chiều cao, bề rộng, độ sâu của thiên nhiên miền Tây Bắc Bắc Bộ  vừa hùng vĩ, vừa dằn dữ. Vượt lên tất cả là hình ảnh người lính Tây Tiến  bất chấp gian khổ, vững bước trên đường hành quân mặc dù cái chết lúc  nào cũng rình rập ập tới.
 
 - Hai câu thơ cuối đoạn:
 Nhớ ai Tây Tiến cơm lên khói
 Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
 
 Đây là điểm đến, điểm hẹn của cuộc hành quân. Người lính Tây Tiến sau  chặng đường gian khổ đã dừng lại, tạm nghỉ chân ở một bản làng nào đó  thuộc đất Mai Châu. Những bữa cơm đơn giản giữa rừng, hương vị ngọt ngào  của nắm xôi em trao để tình quân dân nặng hơn tình cá nước. Câu thơ  cuối đoạn gồm bảy tiếng chỉ có một thanh trắc. Nó nhẹ nhàng gợi cảm giác  vương vấn lan toả trong tâm hồn người đọc, người nghe. Nó bắc cầu cho  mạch cảm xúc ở những câu thơ tiếp.
 
 b. Người lính Tây Tiến giữa khung cảnh núi rừng thơ mộng
 - Có hai hình ảnh đáng chú ý:
 
 + Một là cuộc liên hoan đốt lửa trại
 + Hai là hình ảnh người chiến sĩ giao liên trên dòng sông thuộc đất  Châu Mộc một chiều sương. Để từ đó nhận ra hình ảnh người lính Tây Tiến.
 
 - Đây là cảnh đêm liên hoan:
 
 Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
 …..
 Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
 
 Trong ánh sáng của đuốc hoa (hoa chúc) cảnh vật trở nên rực rỡ, lung  linh. Các cô gái trong bộ xiêm rực rỡ vẫn giữ được dáng điệu e ấp, vẻ  đẹp riêng của người con gái dẻo cao. Bút pháp lãng mạn tìm đến những  người liên tưởng giúp người đọc nhận ra niềm vui tràn ngập, tình tứ qua  từ ngữ (đuốc hoa, em, nàng e ấp). Ta như thấy anh bộ đội Tây Tiến nắm  tay các cô gái và thướt tha trong vũ điệu. Ta như thấy các cô gái dân  tộc nở nụ cười tươi, đôi mắt long lanh trong “man điệu”. Tất cả càng  sống động thêm trong tiếng khèn, những âm thanh nhạc cụ của một vùng sơn  cước. Và trong không khí vui nhộn ấy có cả những chàng trai cô gái Lào  với vũ điệu lâm tơi: “Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”. Đâu chỉ chiến đấu  dũng cảm chịu nhiều gian nan thiếu thốn, vượt qua thử thách hi sinh,  người lính Tây Tiến bộc lộ niềm vui, vẻ đẹp tâm hồn trong những đêm liên  hoan như thế. Ta bỗng liên tưởng tới câu thơ của Tố Hữu trong bài Nước  non ngàn dặm:
 
 Những chàng lính trẻ măng tơ
 Ngêu ngao gõ bài hát chờ cơm sôi
 
 Tâm hồn người lính là vậy đấy đâu chỉ thấy ở chiến sĩ Tây Tiến.
 
 - Đó là bức tranh thiên nhiên đầy thơ mộng:
 
 Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
 ….
 Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
 
 
 - Cảnh vật như mờ đi trong chiều sương buông. Nó trở nên mềm mại và có  hồn hơn nếu ta đặt nó bên cạnh dốc cao, vực thẳm. Những bông lau lay  động trên hai bờ con sông, nó trở nên mềm mại và có hồn hơn nếu ta đặt  nó bên cạnh dốc cao, vực thẳm. Những bông lau lay động trên hai bờ con  suối. Một thứ cây man dại (mọc tự nhiên), mang đặc trưng của rừng núi  phía bắc được hồn thơ người lính thổi vào. Bất giác ta nhớ lại thuở xa  xưa Đinh Bộ Lĩnh lúc còn nhỏ đã từng lấy bông lau làm cờ để rồi trở  thành ông vua dẹp loạn 12 xứ quân. Những bông lau mang hồn thơ lãng mạn  đến muôn đời.
 
 - Nổi bật giữa thiên nhiên đầy thơ mộng ấy là  hình ảnh người lính Tây Tiến trên con thuyền độc mộc (thuyền làm bằng  một cây gỗ to), chèo thuyền cho các anh bộ đội là những người dân địa  phương. Quang Dũng đã ghi lại trong thơ mình “dáng người”, với đôi mắt  “đong đưa”. Ở đây có nhiều cách hiểu. Có người cho đó là “dáng người”  thon thả cùng với nụ cười tươi như hoa nở với đôi mắt lúng liếng, “đong  đưa” của cô gái chèo đò. Cũng có người cho những dáng người chắc khoẻ  ngồi trên con thuyền độc mộc lướt nhanh trên dòng nước lũ, len lỏi bên  những cây rừng, những đám hoa mọc hai bên bớ suối hẹp. Cũng có cách hiểu  đó là “dáng người”, “hoa” và “đong đưa” tạo thêm một nét làm duyên cho  bức tranh thiên nhiên. Chính nét đẹp ấy tô đậm thêm tâm hồn của người  lính. Tâm hồn người lính đâu phải “khô như ngói” mà chan chứa ân tình và  thơ mộng lãng mạn lắm. Câu thơ của Quang Dũng làm ta liên tưởng tới bài  thơ Giấc ngủ của nàng tiên dũng sĩ mà Lê Anh Xuân ghi lại:
 
 Em ngủ vườn chưa xanh nắng thưa
 Êm êm dịu dịu dưới thên dừa
 
 Trong cuộc chiến tranh ác liệt ngày đánh Mĩ, bom đạn dội xuống bất kể  lúc nào mà tâm hồn người lính vẫn yêu đời, lãng mạn đến thế. Trở lại bài  thơ của Quang Dũng hắn ta cũng nhận ra tâm hồn của người lính Tây Tiến.
 
 - Hình ảnh người lính Tây Tiến hiện ra đậm nét trong đoạn thơ:
 
 Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
 ….
 Sông mã gầm lên khúc độc hành
 
 Hai câu thơ đầu “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc/ Quân xanh màu lá giữ oai hùm”
 
 + “Đoàn binh” chứ không phải đoàn quân. Đoàn binh tạo ra âm vang mạnh  mẽ hơn. Ba tiếng “không mọc tóc” gợi ra nét ngang tàng độc đáo. Cả câu  thơ tạo hình ảnh hiên ngang, dữ dội, lẫm liệt của người lính Tây Tiến.  Hình ảnh:
 
 + “Quân xanh màu lá dữ oai hùm” tố đậm thêm nét kiêu  hùng của người lính. Cảm hứng lãng mạn đầy chất tráng ca đã giúp Quang  Dũng hoạ bức chân dung người lính Tây Tiến bằng những nét vẽ phi thường,  độc đáo vượt lên mọi khổ ải thiếu thốn.
 
 Cuộc hành quân chiến  đấu trong gian khổ ở rừng thẳm núi cao, người lính bị sốt rét đến xanh  da, trọc tóc. Qua cảm hứng của Quang Dũng thì sự thật ấy không hề tỏ ra  tiều tuỵ, ốm yếu, bệnh tật mà khoẻ khoắn, dữ dội đầy chất ngang tàng,  bất chấp tất cả. Nếu đặt những câu thơ này bên cạnh những câu viết bằng  bút pháp hiện thực, chúng ta sẽ thấy rõ:
 
 * Sốt run người vầng trán mướt mồ hôi
 Áo anh rách vai
 Quần tôi có vài mảnh vá
 Chân không giày thương nhau tay nắm lấy bàn tay.
 (Đồng chí - Chính Hữu)
 
 * Cuộc đời gió bụi pha xương máu
 Đói rét bao lần xé thịt da
 Khuôn mặt đã lên màu bệnh tật
 Đâu còn tươi nữa những ngày hoa
 (Lê Cấm Sơn – Thôi Hữu)
 
 - Đó là nét đẹp hào hoa, lãng mạn, đầy thơ mộng của những chàng trai Hà Nội.
 
 + Hà Nội với những “dáng kiều thơm” vẫn hiện lên trong tâm tưởng người lính Tây Tiến với nỗi nhớ da diết
 Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
 Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
 
 Thơ ca kháng chiến nhất là kháng chiến chống Pháp ít nói về sự hi sinh,  mà có nói cũng chỉ thoáng qua vài nét mờ nhạt. Các anh bộ đội hi sinh  về tình cảm riêng, nén chặt trong lòng chờ ngày trở về. Cũng có bao lứa  đôi không thành vì một trong hai người đã ngã xuống bởi viên đạn của kẻ  thù qua các bài Màu tím hoa sim của Hữu Loan, Núi đôi của Vũ Cao. Quang  Dũng cũng nói về sự hi sinh ấy với nét hào hoa lãng mạn. Nhà thơ khắc  sâu sự hi sinh bằng cảm hứng bi tráng:
 
 Rải rác biên cương mồ viễn xứ
 …
 Sông Mã gầm lên khúc độc hành
 
 - Những nấm mồ chiến sĩ nằm rải rác ở biên cương nhân lên cảm xúc của  sự bi thương. Chứng tỏ Quang Dũng không hề lảng tránh sự thật. Nhưng  tinh thần, khí phách tuổi trẻ một thời đã tự nguyện “chẳng tiếc đời  xanh”, vượt lên bất chấp cả cái chết, sẵn sàng hiến dâng cả mạng sống  của mình cho Tổ quốc. Đây không chỉ là cảm nhận của thơ ca mà là dũng  khí tinh thần, hành động của tuổi trẻ Việt Nam trên hành trình cứu nước.
 
 - Tình đồng đội thật cảm động. Người lính ngã xuống, đồng đội chỉ có  thể khâm liệm thi hài bằng chính áo quần của họ. Điều kiện thiếu thôn  biết làm sao! Hai tiếng “về đất” gợi tình gần gũi chân thật. Sống để  chiến đấu giữ gìn tự do độc lập cho tổ quốc. Khi hi sinh người lính lại  trở về đất mẹ yêu thương. Quang Dũng không đi theo hướng của đạo thành  Gia Tô “con người sinh ra trong cát bụi lại trở về cát bụi” mà biểu hiện  bằng xúc cảm trang trọng, thiêng liêng. Đoạn thơ có 28 chữ thì 13 chữ  (gần một nửa) là từ Hán Việt. Cách sử dụng từ ngữ đã tạo nên sự tôn kính  trang nghiêm. Đặc biệt âm hưởng của câu thơ có tiếng “gầm lên” của sông  Mã. Phải chăng trong giờ phút li biệt những người con thân yêu đã ngã  xuống vì độc lập tự do của Tổ Quốc, cả non sông đang tấu lên khúc nhạc,  cử hành khúc nhạc tiễn đưa. Quang Dũng đã gửi vào câu thơ một khúc bi  tráng.
 
 
 3. Khẳng định lí tưởng chiến đầu và tình cảm đồng đội
 - Bốn câu thơ cuối bài:
 
 Tây Tiến người đi không hẹn ước
 …
 Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi
 
 - Quang Dũng khẳng định tình cảm của mình với đồng đội. Nhà thơ nhớ về  “Tây Tiến” là nhớ về tuổi trẻ một thời say mê, hào hùng. Đến lúc này  (1948) mặc dù đã xa đơn vị, xa những người đồng đội thân yêu, xa miền  Bắc Tổ quốc, Quang Dũng đã bộc lộ nỗi nhớ bằng sự khẳng định không bao  giờ quên.
 
 - Mặt khác đoạn thơ kết bài thể hiện lí tưởng chiến  đấu “một đi không về” của người lính. Họ ra đi chiến đấu không hẹn ngày  trở về. Bởi “Đời chúng ta đâu có giặc là ta cứ đi” và “chưa hết giặc là  ta chưa về”.