
Luân hồi (zh. 輪迴, sa., pi. saṃsāra, bo. `khor ba འཁོར་བ་, nguyên nghĩa  Phạn ngữ là “lang thang, trôi nổi” theo ngữ căn sam-√sṛ, có khi được gọi  là Hữu luân (zh. 有輪), vòng sinh tử, hoặc giản đơn là Sinh tử (zh. 生死).  Thuật ngữ này chỉ những đời sống tiếp nối nhau, trạng thái bị luân  chuyển của một loài Hữu tình khi chưa đạt giải thoát, chứng ngộ  Niết-bàn. Nguyên nhân trói buộc trong luân hồi là các pháp Bất thiện  (sa. akuśala), gồm có tham ái (sa. tṛṣṇā), sân (sa. dveśa) và si (sa.  moha, hoặc vô minh, sa. avidyā). Nghiệp (sa. karma) là động cơ tác động  lên cơ chế của sự tái sinh. Trong Đại thừa, luân hồi được xem là thế  giới của hiện tượng và thể tính của nó chính là thể tính của Niết-bàn.
Cội nguồn của luân hồi từ đâu, loài hữu tình có từ bao giờ…, những câu  hỏi này đã được nhiều người nêu lên nhưng Phật tuyệt đối không trả lời  những sự thắc mắc vô bổ này vì theo Phật, chúng chẳng giúp ích gì trên  con đường tu tập. Niết-bàn, sự giải thoát khỏi luân hồi chỉ có thể thực  hiện trong kiếp làm người; trong tất cả con đường tái sinh khác chúng  sinh không thể đạt Bồ-đề vì không có đủ khả năng nhận thức được yếu tố  chính của luân hồi, đó là tham và vô minh. Muốn thoát khỏi luân hồi thì  cần phải dứt được nghiệp chướng do dục giới mang lại; muốn thoát khỏi  nó, theo Phật, chỉ có con đường bát chính đạo mới dẫn con người đến cõi  niết bàn
MẬT KHẨU NẾU CÓ: tuthienbao.com
DOWNLOAD