Bài ca người thợ mộc 
   Anh 
là thợ mộc Thanh Hoa,
 Làm cầu, làm quán, làm nhà... khéo  thay!
 Lựa cột anh dựng đòn tay,
 Bào trơn đóng bén nó ngay một  bề.
 Bốn cửa anh chạm bốn dê
 Bốn con dê đực chầu về tổ tông,  
 Bốn cửa anh chạm bồn rồng, 
 Trên thì rồng ấp, dưới thì rồng  leo.
 Bốn cửa anh chạm bốn mèo, 
 Con thì bắt chuột, con leo xà nhà.  
 Bốn cửa anh chạm bồn gà,
 Đêm thì nó gáy, ngày ra ăn  vườn.
 Bốn cửa anh chạm bốn lươn,
 Con thì thắt khúc, con trườn bò  ra.
  Bốn cửa anh chạm bốn hoa, 
 Trên là hoa sói, dưới là hoa  sen.
 Bốn cửa anh chạm bốn đèn, 
 Một đèn dệt cửi, một đèn quay  tơ.
 Một đèn đọc sách ngâm thơ,
 Một đèn anh để đợi chờ nàng  đây.
 
    Lời bình
     Tục ngữ có câu: "Thợ mộc xứ Thanh ở quanh Kinh kì", hoặc:  "Thợ mộc xứ Thanh ở quanh Thuận Quảng". Thợ mộc dù giỏi đến đâu cũng chỉ được  gọi là phó cả. Thợ mộc làm cung điện vua chúa mới được gọi là thợ cả. Xây dựng  cung điện thời Lê - Thịnh, thời Nguyễn sau này, phần lớn là thợ mộc Thanh Hoá.  Câu đầu của bài ca dao này có dị bản ghi là "Anh làm thợ mộc Thanh Hoa". Theo ý  chúng tôi là “Anh 
là thợ mộc Thanh Hoa”;  một chữ 
là biết mấy tự hào khi chàng trai  xưng danh với cô gái. Không phải thợ mộc tầm thường mà là thợ mộc Thanh Hoa xây  dựng cung điện đấy nhé! Hai chữ "khéo thay" cũng là lời tự khen, khoe tài của  anh: "Làm cầu, làm quán, làm nhà ... khéo thay"! Có tài thực mà khoe khoang thì  cũng chẳng hay ho gì! Ở đây, chàng thợ mộc Thanh Hoa khoe tài là để tỏ tình với  cô gái mà anh đang yêu, nên rất dễ thương, được chúng ta đồng tình.
     Câu 3,4 chỉ theo đà mà nói, chứ có tài cán gì ở cái việc  "bào trơn, đóng bén"... Từ câu thứ năm trở đi, bằng biện pháp liệt kê, chàng thợ  mộc khoe tài chạm trổ của anh. Năm bức chạm con vật: dê, rồng, mèo, gà, lươn.  Hai bức chạm cảnh: hoa và đèn. Có bức chạm tứ linh: rồng, nhưng đã được cách  điệu dân gian hoá, bình dị hoá.
  "Trên thì rồng ấp, dưới thì rồng  leo"
     Con lươn có gì đáng chạm? Với tài nghệ điêu luyện, bức  chạm lươn vô cùng sống động, tuyệt khéo: 
 "Bốn cửa anh chạm bốn lươn 
 Con thì thắt khúc, con trườn bò  ra".
     Nghệ thuật cổ phương Đông lấy cái cân xứng làm thành một  tiêu trí của cái đẹp. Hội hoạ, chạm trổ, kiến trúc, thơ văn... hay miêu tả cảnh  vật qua bộ tứ bình: tùng, cúc, trúc, mai; xuân, hạ, thu, đông; ngư tiều, canh,  mục...nghệ sĩ lấy cái đối xứng, cái hài hoà làm trọng. Trong bài ca dao này, các  tiểu đối đã làm rõ vẻ đẹp bức chạm đầy mĩ thuật của chàng thợ mộc:
     - 
Trên thì rồng ấp  // 
dưới thì rồng leo.
     - 
Con thì bắt  chuột // con leo xà nhà.
     - Đêm thì nó gáy // ngày ra ăn vườn.
     - Con thì thắt khúc // con trườn bò ra.
     - Trên là hoa sói // dưới là hoa sen.
     - v.v ...
     Cái 
hồn của bức  chạm 5 con vật được thể hiện ở 
trạng thái  động: " Chầu về tổ tông", "rồng ấp rồng leo", "bắt chuột... leo xà  nhà", "gáy ra ăn vườn", "thắt khúc... trườn bò ra".
 Tất cả các bức chạm đều cho thấy 
anh thợ mộc là con một người 
rất tài hoa.
     Anh còn là một 
chàng trai đa  tình. Làm nghề thợ mộc dù giỏi đến mấy cũng thuộc vị thế tầm thường  qua sự xếp đặt 4 lớp người trong xã hội phong kiến. Bức chạm hoa - hoa sói , hoa  sen - là một ngầm ý: khoe tâm hồn thanh cao. Chàng trai đang tỏ tình không phải  là loại người vai u thịt bắp đâu nhé! Bức chạm đèn mới thật kì diệu. Hai ngọn  đèn cho người khéo tay hay lam hay làm - chính là cô gái - để dệt vải, để quay  tơ. Đèn thứ ba, để cho ai, "đọc sách ngâm thơ"? Một con người nho nhã đang tỏ  tình với nàng. Ngọn đèn thứ tư là ngọn đèn hạnh phúc:
 "Một đèn anh để đợi chờ nàng  đây".
     Có thể nói bức chạm đèn rất đẹp, đẹp về mặt mĩ thuật, đẹp  ở tâm tình chàng thợ "mộc", đó là một con người luôn luôn hướng về một cuộc sống  lao động, êm đềm hạnh phúc của lứa đôi trong mỗi gia đình Việt Nam.
     
Cấu trúc bài ca dao cân  xứng, hài hoà. Giọng điệu hồn nhiên tự tin và chân thành. Chàng thợ mộc Thanh  Hoa là một chàng trai tài hoa và đa tình: Anh là một con người dễ mến dễ  thương.
Tát nước đầu  đình 
   Hôm qua tát nước đầu đình,
 Bỏ quên cái áo trên cành hoa  sen.
 Em được thì cho anh xin,
 Hay là em để làm tin trong nhà.
 Áo anh sứt chỉ đường tà,
 Vợ anh chưa có, mẹ già chưa khâu.  
 Áo anh sứt chỉ đã lâu,
 Mai mượn cô ấy về khâu cho  cùng.
 Khâu rồi anh sẽ trả công,
 Đến khi lấy chồng anh sẽ giúp  cho.
 Giúp cho một thúng sôi vò,
 Một con lợn béo, một vò rượu  tăm.
 Giúp cho đôi chiếu em nằm, 
 Đôi chăn em đắp, đôi trằm em  đeo.
 Giúp cho quan tám tiền cheo, 
 Quan năm tiền cưới lại đèo buồng  cau.
 
    Lời bình
     "Tát nước đầu đình" là bài ca dao tỏ tình của anh trai  cày với cô gái thôn nữ. Đã có bài "Mận hỏi Đào"... Cũng có cảnh thổ lộ tình yêu  một cách mộc mạc: 
 "Gặp đây anh lắm cổ tay,
 Anh hỏi câu này, có lấy anh  không?"          
     Bài ca dao "Tát nước đầu đình" cho thấy, anh trai cày này  dễ thương hơn. Gặp cô thôn nữ chắc anh đã "phải lòng" rồi, anh lấy cớ "mất áo"  để bắt chuyện. Sen làm gì có cành, đó chỉ là cách nói cho đậm đà. Cô gái bị buộc  vào một cảnh ngộ "khó xử":
 "Em được thì cho anh xin
 Hay là em để làm tin trong nhà"
     Chiếc áo đã trở thành "cái cầu" thương nhớ! Thật là hồn  nhiên, tự nhiên. Cô thôn nữ chắc là đã "Lắng nghe lời nói như ru - Chiều thu dễ  khiến nét thu ngại ngùng" (Kiều). Bỏ đi sao đành, khi nghe chàng thổ lộ gia  cảnh:
 "Áo anh rứt chỉ đường tà,
 Vợ anh chưa có, mẹ già chưa  khâu"
     Cái áo đã đi trọn một vòng đời khi anh nói: "Mai mượn cô  ấy về khâu cho cùng". Anh đang chăn đơn gối chiếc, thiếu kẻ sửa túi nâng khăn.  Anh chỉ có mẹ già, "mẹ già bằng ba lần cửa", "mẹ già như chuối ba hương - như  xôi nếp mật như đường mía lau" (ca dao).
     Cảnh ngộ ấy, ai nghe mà chẳng động lòng. Từ chỗ gọi bằng  "em", chàng trai cày chuyển sang gọi bóng gió: "cô ấy".
 Chàng trai nói về chuyện "trả công", nói về chuyện "giúp  cho". Rất hậu hĩnh: "một thúng xôi vò", "một con lợn béo", "một vò rượu tăm".  Cũng với lời nói, đến đây, khoé mắt, đôi mày, nụ cười, mái tóc ... như đều biết  nói, cùng tham dự vào cuộc tỏ tình. Mỗi lúc một hé lộ, cánh cửa tâm tình mở rộng  dần ra. Từ 
"một" đã thành 
"đôi" rồi:
 "Giúp em đôi chiếu em nằm
 Đôi chăn em đắp, đôi trằm em  đeo"
     Bài ca dao, "bức thông điệp của tình yêu" đã thấm sâu vào  tâm hồn người thiếu nữ khi bên tai nàng một tiếng nói chân tình vang ngân:
 "Giúp cho quan tám tiền cheo, 
 Quan năm tiền cưới, lại đèo buồng  cau".
     Các điệp từ, điệp ngữ: 
"giúp  cho.... giúp cho..." tạo nên ngữ điệu nồng nàn, ý vị, thiết tha, thể  hiện một cách chân thành nỗi ước mơ nên vợ nên chồng mà chàng trai cày đang  hướng tới.
     Cho chim khoe giọng hót. Anh thợ mộc Thanh Hoa khoe tài.  Chàng trai cày nói chuyện bỏ quên cái áo "sứt chỉ đường tà" v.v… Trai gái làng  xưa đã tỏ tình, đã giao duyên... đậm đà như vậy.
     
Lao động, hạnh phúc lứa  đôi, cuộc sống êm đềm hạnh phúc "chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa", là ước  mong, khát vọng muôn đời của họ. Chân thành, tế nhị ... của chàng trai trong tỏ  tình, trong giao tiếp... là một nét rất đẹp trong tâm hồn để ta trân  trọng.