Bình luận một số câu thơ trong Truyện Kiều
			 
			 
			
		
		
 
 
 
 
 
 
Hàng trăm năm qua, Truyện Kiều vẫn luôn tồn tại  trong đời sống của dân tộc Việt. Đây là một trong số ít các tác phẩm lớn  được nhiều người dân đủ mọi tầng lớp học thuộc lòng. Vì vậy đối với bài  bình luận này, hy vọng nhà thơ Vương Trọng sẽ mang lại hứng thú cho học  sinh, sinh viên học văn, thầy giáo, cô giáo dạy văn cũng như bạn đọc mê  Truyện Kiều. 
	 		    	1 – Sống làm vợ khắp người ta 
	Hại thay thác xuống làm ma không chồng. 
  	Đây là lời Thuý Kiều thốt lên sau khi  nghe Vương Quan kể chuyện bi thảm của Đạm Tiên bên ngôi mộ “sè sè nấm  đất”, “dàu dàu ngọn cỏ”, lạnh lẽo cả trong tiết Thanh minh. 
  	Đạm Tiên trước, Thuý Kiều sau; ca nhi  ngàn xưa và “ca-ve” ngày nay có chung một đặc điểm: Đấy là những người  con gái tạo hoá ban cho một chút nhan sắc nhưng lại giáng xuống bản thân  hoặc gia đình họ những tại hoạ, buộc họ phải gánh chịu, đưa đẩy họ vào  chốn lầu xanh, mất quyền làm người, trở thành một món hàng. 
  	Vì có chút nhan sắc nên lắm chàng tìm  đến; bởi đã trở thành món hàng nên mình không có quyền chọn lựa mà để  người ta cư xử với mình như với một món hàng đã bỏ tiền mua. Câu thành  ngữ mới “trả tiền bóc bánh” phần nào nói được thái độ cư xử thô bạo,  không chút tình cảm của khách làng chơi đối với các cô gái lầu xanh. 
  	Đời người một kiếp ca nhi chung chạ với  bao người đàn ông, biết mặt không biết tên, “mặc người gió Sở mưa Tần”,  xong cuộc, họ bỏ đi không để lại dấu vết, chứ có mấy ai được như chàng  Thúc “trước còn trăng gió sau ra đá vàng”! 
  	Những đôi lứa yêu nhau chân thành, vì  nguyên do nào đó không lấy được nhau, khi chết đi họ còn mang theo cả  khối tình xuống chốn tuyền đài. Tình yêu là thế, còn tình dục chỉ là sự  thoả mãn xác thịt nhất thời, kiếp này chẳng yêu thương, nói chi đến kiếp  sau. Cặp lục bát này về hình thức, là sự đối lập giữa lúc sống và sau  khi chết. Nhưng sự đối lập ấy chỉ là hình thức, còn thực chất đó là quan  hệ nhân quả: khi sống thế thì sau khi chết phải thế! 
  	Trong toán học cao cấp có khái niệm “trù  mật khắp nơi” và “không đâu trù mật” để nói về hai cực đối lập của sự  phân bố các phần tử của tập hợp. Ở đây, hình như Đại thi hào vô hình  trung cũng sử dụng khái niệm ấy để nói về “sự phân bố chồng” của kiếp ca  nhi ở cõi dương và ở cõi âm: khi sống thì ở đâu cũng có chồng, bất cứ  người đàn ông nào cũng có thể là chồng, còn chết rồi thì ngược lại:  không có một ai. 
  	Nói “làm ma không chồng” là dự đoán sự cô  quạnh khi mình ở cõi âm từ thực tế của kiếp này. Sự thật nghịch lý và  bi kịch của kiếp ca nhi chẳng cần đợi đến khi đã “thành ma”, chẳng cần  đợi kiếp sau, mà ngay ở kiếp này: Khi mình còn nhan sắc thì “xôn xao  ngoài ngõ thiếu gì yến anh”, đến khi đau yếu, bệnh tật thì không kẻ đoái  hoài, chết một mình một góc, đâu phải chỉ một Đạm Tiên? “Sống làm vợ  khắp người ta” đã nhục, đã khổ lắm rồi, người ca nhi nào cũng chung ý  nghĩ “cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh”, cho hết thời trẻ trung, cho  hết cuộc đời, tưởng khi mình chết đi thì mới được thanh thản. 
  	Nhưng không, sự sỉ nhục của kiếp phong  trần không chỉ dừng lại trần thế, mà còn theo về cõi âm với một biến  tướng mới, về hình thức tưởng như ngược lại những gì ca nhi đã trải,  nhưng không hề mang lại niềm vui mà chỉ chuốc lấy nỗi bất hạnh mới thật  tệ hại: làm ma không chồng! 
  	“Sống làm vợ khắp người ta”! Chữ “khắp”  mới thật tài tình, hàm chứa sự xô bồ, không hề có sự chọn lựa.Thông  thường chữ khắp thường đặt trước một danh từ chỉ nơi chốn: khắp chợ,  khắp đồng, khắp làng, khắp nước… Ở đây Nguyễn Du đã thay đổi cách sử  dụng quen thuộc đó, mạnh dạn đặt sau chữ khắp hai chữ người ta thật mới  mẻ và bất ngờ. Khắp người ta: không loại trừ một loại người nào. 
  	Có soạn giả Truyện Kiều không tán thành  khái niệm vợ, chồng đối với các cô gái lầu xanh vì vợ chồng thì phải có  hôn thú (!) nên muốn đề nghị đổi chữ khắp thành chữ chắp: vợ chắp người  ta! với lý luận rằng cô gái lầu xanh chỉ là vợ chắp, chứ không thể là vợ  của khách làng chơi được! 
  	Về luật pháp thì phần nào soạn giả này có  lý, nhưng đối với việc thẩm định Truyện Kiều nói riêng và thưởng thức  thi ca nói chung thì, ý kiến ấy xem ra quá cứng nhắc, khó thuyết phục  được ai. 
  	 		 
 
 	 		Tranh minh họa Truyện Kiều của họa sĩ Mai Thứ. 
  
  	Nguyễn Du không đợi giấy hôn thú để chỉ  khái niệm vợ chồng ở chốn thanh lâu, mà sử dụng đặc trưng lớn nhất của  vợ chồng là chuyện chăn gối. Đó là chưa kể ở chốn thanh lâu người ta vẫn  quen xưng “chàng chàng, thiếp thiếp” (Chàng chàng thiếp thiếp vui bằng  được / Bố bố con con chẳng nhận ra – Nguyễn Bính) ngày xưa và “vợ vợ,  chồng chồng” ngày nay, mà ai cũng hiểu rằng “chàng thiếp”, “vợ chồng” ở  đây khác xa khái niệm vợ chồng truyền thống.  Phải chăng cặp lục bát này  đã phơi bày bi kịch lớn nhất của kiếp ca nhi? 
  	2 – Một mình lưỡng lự canh chầy 
	Đường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh. 
  	Ngày đi chơi Thanh minh gặp mộ Đạm Tiên,  đêm Đạm Tiên báo mộng cho biết mình có tên trong sổ đoạn trường, Thuý  Kiều “trằn trọc canh khuya”, sụt sùi kinh hãi cho cuộc đời sau này của  mình. Trước đó, bên mộ Đạm Tiên, sau khi nghe Vương Quan kể về bi kịch  của cô ca kỹ này, Thuý Kiều đã vận vào mình “thấy người nằm đó biết sau  thế nào”. Định mệnh là tư tưởng quán xuyến trong Truyện Kiều. Có người  dẫn câu “Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều” để kết luận Nguyễn Du  chống lại tư tưởng định mệnh, mà quên rằng câu trích kia không phải là  lời tác giả Truyện Kiều, mà là lời của chàng Kim nói lại khi thấy Thuý  Kiều quá tin vào tướng, số. 
  	Còn cụ Nguyễn Du thì sao? “Cho hay muôn  sự tại trời” là kết luận Truyện Kiều cũng là nói lên nhận thức của tác  giả. Nhưng trong Truyện Kiều, người tin vào tiền định, vào định mệnh mà  bạn đọc dễ nhận biết nhất chính là Thuý Kiều. Cảm thương kiếp Đạm Tiên,  đâu chỉ là tình thương đối với người ca nhi bạc mệnh, mà chính Thuý Kiều  thương cho mình vì quá khứ của Đạm Tiên chính là “nỗi sau này” của Thuý  Kiều. 
  	Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du sử dụng hơn  60 lần chữ nỗi, ngoài những kết hợp quen thuộc như nỗi lòng, nỗi riêng,  nỗi niềm, nỗi quê …còn có những kết hợp hết sức mới mẻ như nỗi đêm, nỗi  ngày (nỗi đêm khép mở, nỗi ngày riêng chung), đặc biệt ý nghĩa chữ nỗi  được mở rộng ra với “nỗi dọc đường”, và ở đây là “nỗi sau này”. Trong  cái đêm “trằn trọc canh khuya”, “lưỡng lự canh chầy”, “nỗi sau này” của  Thuý Kiều chưa hề cụ thể, mà chỉ từ cuộc đời của Đạm Tiên mà suy ra cho  thân phận của mình. “Nỗi sau này” là nói về điều kinh hãi đang bày sẵn ở  phía tương lai, và khi trở thành thực tại thì đó là “Hết nạn nọ, đến  nạn kia / Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần / Trong vòng giáo dựng  gươm trần / Kề răng hùm sói gửi thân tôi đòi…” như lời sư Tam Hợp đã  tổng kết lại. Ở đây sự kinh sợ “nỗi sau này” của Thuý Kiều được tác giả  đồng cảm, và diễn biến của phần lớn Truyện Kiều như cốt để chững minh  cho “nỗi sau này” đó đáng sợ đến dường nào. 
  	3- Dặm khuya ngất tạnh mù khơi 
	Thấy trăng mà thẹn những lời non sông. 
  	Với Thuý Kiều, đêm trongTruyện Kiều  thường có trăng. Đó là “gương nga chênh chếch nhòm song” đêm Đạm Tiện  hiện về báo mộng;  “nhặt thưa gương dọi đầu cành” và “vầng trăng vằng  vặc giữa trời” đêm tự tình và thề bồi cùng Kim Trọng; 
	“ gió cây trút lá trăng ngàn ngậm gương” đêm lẻn trốn cùng Sở Khanh;  “một vầng trăng khuyết ba sao giữa trời” đêm ở Lâm Tri nhớ Thúc Sinh;  “lần đường theo ánh trăng tà về tây” đêm trốn ra khỏi Quan Âm các; “mảnh  trăng đã gác non đoài” đêm nàng nhảy xuống sông Tiền Đường… 
  	Còn vầng trăng xuất hiện trong cặp lục  bát trên kia là trong đêm trên đường nàng theo xe cùng Mã Giám Sinh đi  từ quê Bắc Kinh về tận Lâm Tri. Thấy vầng trăng ấy, Thuý Kiều đã liên  tưởng đến vầng trăng nào mà thẹn? Tất nhiên nàng không thể nghĩ về những  vầng trăng về sau, vì khi đó nàng chưa từng được chứng kiến. Nàng cũng  không nghĩ về vầng trăng đã dẫn Đạm Tiên về báo mộng cho mình, mà chắc  chắn nàng nghĩ về vầng trăng có liên quan đến kỷ niệm, đến mối tình với  chàng Kim, đấy là “vầng trăng vằng vặc giữa trời” của đêm thề bồi, hẹn  ước. 
  	“Lời non sông” là lời gì vậy? Cũng như  “lời vàng đá”, “lời non sông” là lời thề bồi tình yêu của các cặp tình  nhân ngày xưa, vì khi thề họ thường mượn những vật thể to lớn như núi  sông, quý giá và chắc chắn như vàng đá để nói tình yêu của mình. Ta điểm  lại xem “những lời non sông” của Kim, Kiều như thế nào? Dưới vầng trăng  vằng vặc đêm ấy, hai mặt một lời, họ đã thề: “trăm năm tạc một chữ đồng  đến xương”, hứa “chạm xương khắc cốt” tình cảm của nhau, “chữ đồng là  nói tắt chữ đồng tâm, nghĩa là cùng một lòng yêu nhau” như học giả Đào  Duy Anh giải thích.  Chàng Kim đã thề với Thuý Kiều: 
  	Ví dù giải kết đến điều 
	Thì đem vàng đá mà liều với thân. 
  	Nghĩa là đã yêu nhau rồi, đính hôn rồi ,vì lẽ gì đó mà trời xanh bắt chia lìa thì xin chết với nhau bởi coi lời thề như vàng đá. 
  	Khi chia tay Thuý Kiều để về hộ tang chú, chàng Kim cũng từng nhắc đến vầng trăng thề bồi ấy: 
  	Trăng thề còn đó trơ trơ 
	Dám xa xôi mặt mà thưa thớt lòng. 
	Khi đó, chính Thuý Kiều đã hứa: 
  	Đã nguyền đôi chữ đồng tâm 
	Trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai… 
	Thế mà giờ đây, không giữ được lời thề, nàng đã thành vợ người khác rồi, thì  không hổ thẹn sao được? 
  	Từ Bắc Kinh, Thuý Kiều phải đi xe suốt  một tháng ròng mới đến Lâm Tri. Trên đường đi, đêm khuya bất chợt nàng  thấy vầng trăng mà thẹn cho những lời mình từng thề thốt mà không sao  giữ được. “Dặm khuya ngất tạnh, mù khơi”. Trước hết, ta hãy dừng lại hai  chữ dặm khuya. Nguyễn Du là thi sĩ bậc thầy trong việc nén chữ trong  thơ lục bát, nghĩa là dùng ít chữ mà nói được nhiều ý. Dặm khuya không  chỉ nói về thời gian là khuya, mà còn nói về không gian là trên đường  đi, hàm ý cái cảnh đêm khuya Thuý Kiều chứng kiến là trên đường đi. 
  	Các nhà thơ ngày nay chỉ có thể viết được  đêm khuya, canh khuya…giỏi lắm cũng chỉ đường khuya là cùng, chứ khó  nghĩ ra được hai chữ dặm khuya như tác giả Truyện Kiều trên hai trăm năm  trước. Học giả Đào Duy Anh cho in là ‘ngắt tạnh mù khơi” và giải thích:  “chỉ tình trạng lặng ngắt, vắng tanh”. Tôi không đồng tình với cách  giải thích này. Tôi nghiêng về “ngất tạnh, mù khơi” như một số bản Kiều  khác, và coi đây là một tiểu đối, nên ta hiều được chức năng ngữ pháp và  ý nghĩa của các từ. 
  	Danh từ mù giúp ta hiểu được chữ ngất  cũng là một danh từ, có ý nghĩa là một thứ gì đó thường che khuất tầm  mắt người nhìn như mù, như mây, như hơi sương… “Ngất tạnh” cũng giống  như mưa tạnh, không còn ngất nữa, “mù khơi” là mù loãng ra, khai thông  tầm nhìn. Vì “ngất tạnh, mù khơi” nên nàng Kiều mới nhìn thấy trăng.  Nguyễn Du đặc biệt chú ý đến logic trong thơ, không chỉ trong một câu,  mà từ câu này tiếp nối với câu khác. Ở phần Đòan viên, Nguyễn Du đã tả  cảnh: 
  	Trời còn để có hôm nay 
	Tan sương đầu ngõ, vén mây giữa trời 
	Hoa tàn mà lại thêm tươi 
	Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa. 
  	Như nhiều bạn đọc đã chú ý về logic trong  đoạn thơ này: tan sương đầu ngõ để thấy hoa, vén mây giữa trời để thấy  trăng. Và, “tan sương đầu ngõ, vén mây giữa trời” cũng có ý nghĩa tương  tự như “ ngất tạnh, mù khơi” để có thể nhìn thấy trăng. Nhưng cả câu lục  “Dặm khuya ngất tạnh mù khơi” chỉ là sự gợi mở về không gian và thời  gian, trọng lượng câu thơ tập trung ở câu bát “Thấy trăng mà thẹn những  lời non sông”, làm người đọc thấy được từ sâu thẳm nỗi lòng của Thuý  Kiều sự đau đớn, mối ân hận tiếc nuối, thẹn với vầng trăng thề bồi bởi  chính mình vì hoàn cảnh mà thành người phụ bạc tình yêu. 
  	4 – Thân lươn bao quản lấm đầu 
	Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa. 
  	Đây là lời hứa của Thuý Kiều khi bị Tú bà  đánh đập vì tội lẻn trốn đi cùng Sở Khanh. Thông thường, khi con cái  hoặc thuộc hạ mắc tội bị bố mẹ hoặc người có quyền đánh đập, thì người  có tội thường hứa từ nay về sau xin chừa, không bao giờ dám phạm vào tội  ấy nữa. Lòng trinh bạch là gì, phải chăng đấy cũng là một loại tội lội  mà Thuý Kiều hứa “từ sau xin chừa”? Lòng trinh bạch là lòng trong trắng  của Thuý Kiều. 
  	Nhưng sao không phải là tấm lòng trinh  bạch mà lại là chút lòng trinh bạch? Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du sử  dụng khá nhiều chữ chút, để chỉ một ít, một vật nhỏ mọn với lối nói  khiêm nhường như chút dạ, chút lòng, chút phận, chút thân, chút riêng,  chút ước… Nhưng ở câu thơ này, “chút lòng trinh bạch” còn hàm chứa một  nội dung khác: lòng trinh bạch của Thuý Kiều đã bị Mã Giám Sinh cướp đi  phần lớn trong đêm ở nhà trọ trước ngày theo xe để về Lâm Tri. “Tiếc  thay một đoá trà mi/ Con ong đã tỏ đường đi lối về”. Cái quý nhất của  người con gái đã không còn nữa, nàng toan tự tử nhưng sợ liên luỵ đến bố  mẹ, đành ngậm tủi nuốt hờn. 
  	Nhưng dù sao khi ấy nàng vẫn nghĩ Mã Giám  Sinh mua mình về làm vợ, nên y có quyền làm điều đó. Khi về đến Lâm  Tri, mới hay được sự tình và nàng quyết giữ lấy chút lòng trinh bạch ít  ỏi còn lại. Ở đây “lòng trinh bạch” còn hàm chứa  thêm ý nghĩa là nếp  con nhà lành.Nàng đã làm những gì với mục đích giữ lấy nó? Lần đầu khi  Tú Bà bắt nàng tiếp khách, Thuý Kiều đã toan tự tử “một dao oan nghiệp  đứt dây phong trần”, để cho mụ Tú phải “cắt người coi sóc rước thầy  thuốc men” nàng mới tỉnh lại được. Khi tỉnh ra, nàng không tự tử tiếp,  một mặt vì lời hứa hẹn giả dối của mụ Tú “tìm nơi xứng đáng làm con cái  nhà”, nhưng cái chính là nàng tin lời Đạm Tiên báo mộng: “Số còn nặng  kiếp má đào / Người dù muốn quyết trời nào đã cho”. 
  	Như vậy, nàng không thể dùng cái chết để  giữ chút lòng trinh bạch ở chốn lầu xanh. Thế thì trốn theo Sở Khanh,  một việc làm nàng không tin ở thành công mà phó thác cho số phận : “  Cũng liều nhắm mắt đưa chân/ Mà xem con tạo xoay vần đến đâu”. Nhưng  tránh đâu cho khỏi trời, nàng bị bắt về đánh đập “Uốn lưng thịt đổ, giập  đầu máu sa”, làm cho nàng nhận ra một chân lý cay đắng: ở chốn này,  lòng trinh bạch là tội lỗi. Hay nói một cách khác, Tú Bà đã biết cách  làm cho Thuý Kiều phải từ bỏ “chút lòng trinh bạch” của nàng. 
  	Thì ra ở đời, con người phải đổi thay  theo hoàn cảnh. Lòng trinh bạch là của quý, ai chẳng muốn giữ gìn, nâng  niu, nhưng khi đã bước vào vũng bùn lầu xanh, đành từ bỏ thôi, mình đã  thành con lươn chui rúc rồi thì làm sao giữ cho đầu khỏi lấm? Còn gì  đáng thương hơn sự đầu hàng số phận đau đớn của Thuý Kiều? 
 
 |  
  
 
		
		
		
 
  
 | 
 |   
 
    BÁO LỖI BÀI VIẾT
 Hãy gửi cốc trà đá cho TTB tài khoản ngân hàng phía dưới hoặc paypal : 
    paypalme/tuthienbao
 Giúp có kinh phí duy trì Free  
 
 
TÌM BÀI VIẾT KHÁC SEARCH TRÊN THANH TìM KIẾM PHÍA TRÊN WEB 
 
 
		
		
		
			
			
			
			
				 
			
			
			
			
			
			
			
				
			
			
			
		 
	
	 | 
 
 
 
 
	 
	
		
	
	
		
 
  	 	 
 
	
ADS
	
	
 
 
	
	
Miễn trừ trách nhiệm.NẾU CÓ ĐIỀU KIỆN HÃY MUA SÁCH ỦNG HỘ NHÀ XUẤT BẢN 
© Tuthienbao.com- TTB chúng tôi không cung cấp chức năng đăng ký thành viên để viết bài hay bình luận - Nếu có khiếu nại chung tôi sẽ xử lý.Mọi dữ liệu về diễn đàn trên website này đều được chúng tôi và các thành viên tham gia website tổng hợp từ  tất cả các trang website .Do đó, chúng tôi không chịu trách nhiệm về những dữ liệu được chia sẻ tại đây.Truyện Nội Dung được chia sẻ chỉ với mục đích giải trí, phi lợi nhuận. Mọi bản quyền thuộc về tác giả và nhà xuất bản gốc.Nếu có yêu cầu gỡ bỏ, xin liên hệ qua email
  
truyen tranh,
truyen tranh 8,truyen tranh hay,
truyen tranh online,
ebook,ebook ngon tinh,
van hoc lop 5,van hoc lop 6,van hoc lop 7,van hoc lop 8,van hoc lop 9,van hoc lop 10,van hoc lop 11,van hoc lop 12,
 
     |