Hình tượng người phụ nữ trong "Tự tình II" và "Thương vợ"
			 
			 
			
		
		
 
 
 
 
 
 
“Thân em như củ ấu gai 
Ruột trong thì trắng vỏ ngoài thì đen 
Ai ơi ném thử mà xem 
Nếm ra mới biết rằng em ngọt bùi”  
  
Đã từ lâu, hình ảnh người phụ nữ Việt Nam xưa đã xuất hiện nhiều qua  những câu ca dao với những vẻ đẹp, hình tượng khác nhau. Nhưng ở họ đều  có chung đức tính truyền thống đẹp đẽ mà dân tộc Việt Nam đã tích luỹ  được qua hàng ngàn năm lao động và đấu tranh. Hình ảnh đó cũng được thể  hiện rất tài tình qua hai bài thơ Tự Tình II cua Hồ Xuân Hương Và Thương  Vợ của Trần Tễ Xương. 
  
Hình ảnh đầu tiên của người phụ nữ Việt Nam được thể hiện qua hai bài  thơ đó là hình tương người phụ nữ Việt Nam chịu nhiều đau khổ, vất vả  trong cuộc sống. Đó là hình ảnh bà Tú vất vả, gian truân kiếm sống, tất  bật ngược xuôi “Quanh năm buôn bán ở mom sông”. Câu thơ đã nói lên một  hoàn cảnh làm ăn vất vả, lam lũ của bà. Ở đây, bà Tú làm việc vất vả  suốt cả năm, không kể mưa nắng trên mom sông- cái doi đất nhô ra đầy  nguy hiểm. Thấm thía nỗi vất vả, gian truân của vợ, Tú Xương đã mượn  hình ảnh con cò trong ca dao để nói về bà Tú. Có điều hình ảnh con cà  trong ca dao đầy tội nghiệp mà hình ảnh con cò trong thơ Tú Xương con  tội nghiệp hơn. Con cò trong thơ không chỉ xuất hiện trong cái rợn ngợp  của không gian mà còn là rợn ngợp của thời gian. Hình ảnh thân cò như  một sự sáng tạo: 
  
 “Lặn lội thân cò khi quãng vắng” 
  
đưa từ lặn lội lên đầu câu, thay con cò bằng thân cò cũng làm tăng thêm  nỗi vất vả, gian truân của bà Tú, càng khơi dậy cả nỗi đau thân phận sâu  sắc, thấm thía hơn: 
  
 “Eo sèo mặt nước buổi đò đông” 
  
Câu thơ gợi nên một sự chen chúc, bươn chải trên sông nước của những  người buôn bán nhỏ, sự cạnh tranh đến mức sát phạt nhau nhưng cũng không  thiếu lời qua tiếng lại. Buổi đò đông đâu phải là ít lo âu, nguy hiểm  hơn khi quãng vắng mà đó còn là sự chen lấn, xô đẩy chứa đầy bất trắc,  nguy hiểm. Những câu thơ đã làm nổi rõ lên những vất vả, cực nhọc mà bà  Tú và người phụ nữ Việt Nam xưa phải chịu đựng, trải qua. 
  
Còn với bài thơ Tự Tình II của Hồ Xuân Hương thì đó là sự khổ đau vì không làm chủ được số phận của mình: 
  
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn 
Trơ cái hồng nhan với nước non.” 
  
Mở đầu là một âm thanh vang vọng, đầy hối hả: Trống canh dồn. Nhưng dù  mãnh liệt đến mấy, tiếng trống cũng chỉ là âm thanh duy nhát trong đêm  vắng, nếu không có nó thì đem khuya sẽ trở nên vô cùng vắng lặng. Cái  động đã đươc sử dụng để tôn lên cái tĩnh, cái cô độc, trống trải của đêm  khuya. Nửa đêm là thời gian sum họp của vợ chồng, là thời điểm hạnh  phúc lứa đôi, ấy vậy mà lại có người phụ nữ tĩnh dậy vào đúng thời khắc  thiêng liêng ấy, hay vì cả đêm người phụ nữ đã không ngủ được vì thiếu  vắng một điều gì đó, vì tâm trạng đang mang nặng một nỗi đau? Tiếng  trống canh âm vang từ xa vọng lại như đang thúc giục thời gian qua mau,  gọi đến một điều đáng sợ đôí với một người đàn bà vẫn còn thân đơn gối  chiếc: đó là tuổi già. Tuổi già càng đến gần nghĩa là hi vọng càng tuột  xa, mọi mong mỏi, khát khao càng trở nên vô vọng. Tiếng trống dồn dập cứ  xoáy sâu vào tâm con người phụ nữ, nó âm vang trong tâm tưởng, âm vang  trong suy nghĩ không tài nào dứt được. Dồn dập, hối hả, tiếng trống  không chỉ bao trùm lên không gian mà còn lên cả thời gian nữa, và tự  hỏi: đây có thật là tiếng trống hiện hữu trong thực tại hay phải chăng  đó là tiếng trống cất lên từ tiếng lòng thổn thức của tác giả, tiếng  trống ám ảnh về một bi kịch đang ngày càng đến gần hơn với bà: 
  
“Trơ cái hồng nhan với nước non” 
  
Khi thời gian cứ lướt qua càng lúc càng dồn dập thì cũng là lúc “hồng  nhan” ngày một trơ ra với đời. “Hồng nhan” chính là nhan sắc, gương mặt  xinh đẹp của người phụ nữ. Đó là điều mà bất cứ người phụ nữ nào cũng  hết sức tự hào, coi trọng, nâng niu. Nhưng từ “cái” gắn liền với “hồng  nhan” như một hòn đá kéo nặng cả câu thơ xuống. “Hồng nhan” để làm gì  khi nữa đêm phải tĩnh giấc trong cái trống trãi, lặng lẽo đến đắng cay?  “Hồng nhan” để làm gì khi nó đâu phải là vĩnh cữu mà sẽ nhanh chóng vỡ  tan theo từng nhịp trống dồn. Câu thơ như lời đay nghiến, mỉa mai chính  bản thân mình, đáng thương cho những người phụ nữ đương thời bị đè nén,  áp bức với những thủ tục phong kiến đến mức xơ xác, héo mòn cả một phận  hồng nhan. Đó còn là nỗi đau vì cô quạnh, thiếu vắng hạnh phúc lứa đôi,  không người yêu thương, thông cảm. 
  
 “Chén rượi hương đưa say lại tỉnh 
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn” 
  
Hai câu thơ vẽ nên một khung cảnh rất thật và cũng chứa chan bao nỗi  niềm tác giả. Một người phụ nữ mà phải ngồi uống rượu một mình, cô đơn  với đêm khuya, với vầng trăng lạnh. Câu thơ là ngoại cảnh mà cũng là tâm  cảnh, tạo nên sự đồng nhất giữa trăng với người. Khi muốn quên sầu là  lúc người ta ở trong tâm trạng cay đắng nhất, khi xung quanh không có ai  để có thể chia sẽ nỗi niềm và ta chỉ còn biết quên đi nỗi niềm trong  men rượu, một mình. Nhưng liệu chén rươu có thể làm quen đi bảo nỗi cô  đơn, tủi nhục trong lòng hay Hồ Xuân Hương uống rượu mà như uống đi bao  giọt sầu mà người uống chẳng đổ đi được khi mà có thể lặng lẽ, âm thầm  nuốt vào cổ họng, để đau khổ cũng chẳng mất đi đâu mà trở lại chính  trong tâm trí mình. Ở đây cảnh tình Xuân Hương được thể hiện chứa đựng  bi kịch. Tuổi xuân đã trôi qua mà nhân duyên không được trọn vẹn.Trăng  vốn là biểu tượng của hạnh phúc, là hình ảnh đại diện cho ước mơ và hi  vọng. Nhưng hạnh phúc của Hồ Xuân Hương lại xót xa đến mức “khuyết chưa  tròn”- một hạnh phúc không hề trọn vẹn, một cuộc đời còn dang dở, éo le  với những trắc trở trong tình duyên. Hạnh phúc của bà chỉ như vầng trăng  khuyết mà bà không thể biết trước ngày mai trăng sẽ khuyết tiếp hay  tròn. Ánh trăng sáng mà lạnh lẽo vô cùng khi ẩn hiện trong đó một nỗi cô  đơn, trống vắng. Và bóng xế đi kèm với trăng lại gợi nên một nỗi niềm  trong lòng tác giả: nỗi lo sợ trước tuổi xuân đang mất đi. Trăng đã xế  mà vẫn khuyết chưa tròn, giống như tuổi xuân của Xuân Hương đang mất đi  mà tình duyên chuă được trọn vẹn. Hình ảnh mặt trăng là hình ảnh ẩn dụ  vô cùng độc đáo và đặc sắc, miêu tả chính xác và vô cùng sinh động ngoại  cảnh mà cũng bộ lộ được tâm cảnh, những suy nghĩ, tâm tư đang hiện hữu  trong bà. 
  
Nhưng dù có vất vả, đau xót, chán chường đến mức nào, thì người phụ nữ  Việt Nam xưa vẫn là những con người có những phẩm chất đẹp đẽ, không chỉ  ở vẻ bề ngoài mà còn là ở tình yêu thương , lòng nhân hậu, một lòng,  một dạ vì chồng, vì con: 
  
“Nuôi đủ năm con với một chồng” 
  
Câu thơ là gánh nặng gia đình đặt lên vai bà Tú, vất vả quanh năm chẳng  nề hà như vậy là để nuôi cả nhà. Đông con, nuôi lũ con đông ấy đã đành,  bà còn phải nuôi chồng. Năm con với một chồng là sáu người. Một phải  gánh sáu, thế là nặng, phải gánh và gánh được, thế là đảm đang. Nhưng  nuôi đủ vẫn hiểu là vừa đủ, vừa đủ nuôi, không thiếu nhưng cũng chẳng  thừa. Vất vả quanh năm đến vậy mà cũng chỉ vừa đủ nuôi chồng, nuôi con,  vậy mới thật là vất vả, đã gắng hết sức rồi. Vậy mới thật là đảm, nặng  đến thế mà cũng gánh xong, khó thế mà cũng chu toàn. Câu thơ thể hiện sự  vất vả, gian lao đức tính chịu thương, chịu khó, hết lòng vì chồng, vì  con của bà Tú nói riêng và của người phụ nữ Việt Nam nói chung. 
  
Còn với Tự Tình II, dù đớn đau đến mức nào thì trong sâu thẳm trái tim  bà, dù yếu ớt đến đâu cũng loé lên ánh lửa khát khao, hi vọng, không  chịu khuất phục mà muốn vùng lên đấu tranh thay đổi cuộc sống của mình: 
  
“Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám 
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.” 
  
Một hình tượng thiên nhiên dữ dội, đầy cựa động như tính cách buớng  bỉnh, không chịu khuất phục điều gì của chính tác giả vậy. Ở đây, Hồ  Xuân Hương, sự buồn tủi bao giờ cũng gợi nên những phản ứng tích cực, bà  không buông xuôi, đầu hàng mà luôn cố gắng tìm cách thay đổi vận mệnh,  cho dù những cố gắng đó mới chỉ dừng lại trong suy nghĩ. Hai câu thơ  tưởng như chỉ miêu tả cảnh vật xung quanh, nhưng chính những đặc điểm  cuả cảnh vật đó đã được dùng để bộc lộ tâm trạng của con người. Hàng  loạt những động từ mạnh đầy sắc thái biểu cảm như xiên, đâm được đảo lên  đầu câu. Những sinh vật bé nhỏ, hèn mọn, còn hèn mọn hơn cả “nội cỏ hoa  hèn” như đám rêu kia mà cũng không chịu mềm yếu. Nó phải mọc xiên, mà  là “xiên ngang mặt đất”. Đá đã rắn chắc lại phải rắn chắc hơn, nó phải  “đâm toạc chân mây”. Biện pháp nghệ thuật đảo ngữ trong hai câu dã làm  nổi bật sự phẫn uất của thân phận đất đá, cỏ cây mà cũng là sự phẫn uất  của tâm trạng. Chỉ những cảnh vật bình thường không có gì đặc biệt như  rêu và đá, nhưng qua cách nhìn đấy bất mãn, ấm ức của tác giả, chúng trở  nên vô cùng sống động. Cự động, nổi loạn, phá phách, muốn đập tan những  gì gò bó đẻ dược tự do vùng vẫy giữa đất trời, thiên nhiên hoà hợp với  con người, đặc điểm thiên nhiên cũng chính là nỗi niềm nhân vật. Và ta  cũng thấy được tâm trạng của Hồ Xuân Hương phẫn uất trước những tục lệ  phong kiến, cũng như những số phận hẩm hiu đang tàn nhẫn ra tay bóp chết  hạnh phúc của bà; những uất hận ấy bị đè nén, gò ép trong lòng bà đến  mức không chịu nổi chỉ chực vỡ oà ra, bà khao khát muốn đập tung tất cả,  muốn đập đổ mọi thứ, muốn tự do biết nhường nào. Nhưng dù sao, bà cũng  chỉ là một người phụ nữ phong kiến, một thân phận nữ nhi cô độc, dù phá  phách, dù nổi loạn đến đâu thì cũng chỉ trong giới hạn ngôn từ. Bà không  thể làm gì hơn được nữa.............. Mặc dù vậy, ta phải công nhận đay  là một cách suy nghĩ vô cùng mới mẻ, một tư tưởng đi trứoc thời đại,  một tính cách hoàn toàn khác biệt so với người phụ nữ lúc bấy giờ. Đó là  một bản lĩnh, một cá tính Xuân Hương đáng trân trọng: 
  
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại 
Mảnh tình san sẻ tí con con” 
  
Ngán là chán ngán, là ngán ngẩm. Hồ Xuân Hương ngán lắm rồi nỗi đời éo  le, bạc bẽo. Xuân đi rồi xuân lại, tạo hoá chơi một vòng luẩn quẩn. Từ  xuân mang hai nghĩa, vừa là mùa xuân, vừa là tuổi xuân. Mùa xuân đi rồi,  mùa xuân trở lại với thiên nhiên, với muôn nghìn hoa cỏ, lá cây, nhưng  với con người tuổi xuân qua là không bao giờ trở lại. Hai từ “lại” trong  cụm từ “xuân đi xuân lại lại” mang hai ý nghĩa khác nhau. Từ lại thứ  nhất nghĩa là thêm lần nữa, từ lại thứ hai nghĩa là trở lại. Sự trở lại  của mùa xuân lại đồng nghĩa với sự ra đi của tuổi xuân. Nghệ thuật tăng  tiến làm cho nghịch cảnh càng éo le hơn: Mảnh tình-san sẻ-tí con con.  Mảnh tình đã bé lại còn san sẻ ra thành ít ỏi, chỉ còn tí con con nên  càng xót xa, tội nghiệp. Câu thơ được viết ra có thể là tâm trạng của  người mang thân đi làm lẽ. Đau xót biết mấy, khi mảnh tình là một thứ  được chia năm xẻ bảy, nhận dược duy nhất một mảnh tí con con. Hạnh phúc  của bà chẳng những không trọn vẹn mà còn nhỏ bé, ít ỏi đến mức độ tội  nghiệp. Tình duyên như thế có để làm gì, chỉ càng thêm tủi nhục, đắng  cay. Cách dùng từ giản đơn mà vẫn vô cùng độc đáo đã cực tả nỗi niềm của  tác giả. Hồ Xuân Hương ngang tàng, thách thức đầy nổi loạn trên là thế,  nhưng cuối cùng tất cả vẫn chỉ chìm vào vô vọng trong sự bất lực tột  cùng và chán chường, mệt mỏi. Những cố gắng vùng vẫy của bà chỉ là vô  ích, bởi phận của bà vốn đã là một bi kịch và mãi mãi chỉ là bi kịch mà  thôi. Có lẽ trong giờ phút ấy, bà đã muốn buông xuôi, muốn bỏ mặc cho  tất cả số phận đưa đẩy, bà đã mất hết hi vọng............ “Giọt nước mắt  em..........âm thầm buông rơi, đêm sầu đơn côi...........trong tim em  ôm trọn một nỗi sàu bơ vơ................đành khóc vậy  thôi............... Liệu Hồ Xuân Hương có thể vượt qua tất cả để trở lại  là một người phụ nữ yêu đời mạnh mẽ, không sợ gì cả như ngày nào? Đó  vẫn là câu hỏi còn dở dang của người phụ nữ đem thân đi làm lẽ, phận  người mà hạnh phúc không bao giờ trọn vẹn mà chỉ nhỏ nhoi như mảnh gương  vỡ......... Câu thơ diễn đat sâu sắc đỉnh điểm, bi kịch của Hồ Xuân  Hương và cũng là của người phụ nữ thời bấy giờ. 
  
Đó là những hiện thân cho những khổ đau của con người trong xã hội xưa,  đồng thời là kết tinh của những đức tính tốt đẹp của ngưòi phụ nữ Việt  Nam qua hàng thế kỉ. Trong cả hai bài thơ là hình tượng người phụ nữ  Việt Nam chịu nhiều đau đớn, tủi cực dưới chế độ phong kiến nhưng ở họ  toát lên sự đấu tranh mạnh mẽ, vượt lên số phận để làn tốt bổn phận của  một người phụ nữ trong gia đình, một người phụ nữ dám vượt lên trên đớn  đau để tìm hạnh phúc mà mình hằng khao khát. 
 
 
Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam thời xưa qua 3 bài thơ: Bánh trôi nước,  Tự tình II của Hồ Xuân Hương và Thương vợ của Trần Tế Xương  
 
 “Từ  bao giờ đến bây giờ, từ Homere đến Kinh Thi đến ca dao Việt Nam, thơ vẫn  là một sức đồng cảm mãnh liệt và quảng đại. Nó đã ra đời giữa những vui  buồn của loài người và nó sẽ kết bạn với loài người cho đến ngày tận  thế.” (Hoài Thanh). Có thể nói, đó chính là sự trường tồn bất diệt của  thơ văn. Và ta càng thấy sức lan tỏa của nó mạnh mẽ hơn khi đến với ngòi  bút nhân đạo của người nghệ sĩ trong thơ ca trung đại. Nổi bật lên  trong những trang viết thấm nhuần tư tưởng ấy chính là hình ảnh người  phụ nữ. Bằng sự đồng cảm nơi sâu thẳm tâm hồn, nhiều tác phẩm ra đời  chính là sự lên tiếng của nhiều nhà thơ nói thay cho tâm sự thầm kín của  người phụ nữ mà tiêu biểu là hai bài thơ “Tự tình II” của Hồ Xuân Hương  và “Thương vợ” của Trần Tế Xương. Đọc những vần thơ ấy, độc giả không  khỏi rung động trước tình cảnh éo le, trớ trêu, những bi kịch đau thương  họ phải gánh chịu. Và có lẽ chính bởi từ đó, ta hiểu thêm về một nửa  nhân loại. Mỗi bài thơ đều được thể hiện bằng phong cách riêng nhưng nổi  bật lên là hình ảnh người phụ nữ tiềm ẩn bao vẻ đẹp, tài năng và phẩm  chất đáng trân trọng. Nhưng trong xã hội phong kiến mục nát ấy, mọi  quyền lợi mà họ đáng được hưởng lại bị tước đoạt. Có thể khẳng định  rằng, người phụ nữ Việt Nam trong xã hội xưa đẹp người, đẹp nết. họ mang  một vẻ thuần khiết, trắng trong, có nhan sắc: “Thân em vừa trắng lại  vừa tròn” (Bánh trôi nước – Hồ Xuân Hương) Và ta cũng bắt gặp hình ảnh  một người vợ đảm đang, yêu thương gia đình: “Quanh năm buôn bán ở mom  sông Nuôi đủ năm con với một chồng” Bà Tú là người rất mực chăm lo cho  chồng con, bà nuôi cả gia đình nhưng cuộc ssống luôn đầy đủ, không để ai  phải đói rách. Mọi người được ăn no mặc ấm, tiêu pha đủ. Qua đó, ta  thấy bà đã làm tròn trách nhiệm với cương vị là người vợ, người mẹ trong  gia đình. Đọc đến đây, hình ảnh “Vũ Nương” trong “Chuyện người con gái  Nam Xương” của Nguyễn Dữ một lần nữa khắc sâu trong tâm trí mỗi người  với phẩm chất cao đẹp của nàng: một người vợ yêu thương chồng con và  hiếu thuận với mẹ. Dường như đây cũng là sự đồng điệu giữa hai tâm hồn  của hai thế hệ nhà thơ Nguyễn Dữ và Tú Xương. Qua đó càng làm nổi bật  lên vẻ nết na, đảm đang của người phụ nữ. Nhưng bên cạnh đó là những khổ  cực, vất vả mà đôi vai yếu mềm phải gánh chịu. Đối với người con gái,  tuổi xuân là thứ đáng quý nhất trong cuộc đời nhưng Hồ Xuân Hương chưa  có được một hạnh phúc trọn vẹn thì nó đã qua đi nhanh chóng, hao mòn  theo thời gian: “Đêm k huya vẳng vẳng trống canh dồn Trơ cái hồng nhan  với nước non” Đã đêm khuya mà bà vẫn thao thức. Tâm trạng rối bời trước  nhịp đập của tiếng trống dồn dập hay cũng chính là bước đi của thời  gian. Cái cô đơn lạnh lẽo cứ bủa vây và dường như mỗi giây phút đi là  tâm trạng được đẩy lên một bậc. Càng đau đớn xót xa biết bao khi người  con gái đã quá lứa, lỡ thì mà tình duyên vẫn chưa trọn vẹn: “Chén rượu  hương đưa say lại tỉnh Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn” Cuộc đời  chính bản thân của bà đã trải qua bao truân chuyên, sóng gió, hai lần  phải làm lẽ và không những chỉ có vậy mà cả hai lần chồng bà đều chết.  Từ đó ta càng không thể phủ nhận một qui luật trong xã hội xưa: tài hoa  bạc mệnh. Một người có tài năng như bà lại vướng phải bi kịch tàn khốc,  đau thương. Bởi thế, bà chỉ còn biết nhớ đến “chén rượu”. Vì men rượu –  hương nồng đắng cay sẽ làm cho người ta say mà quên đi cay đắng! Đến một  người phụ nữ cũng phải độc ẩm trong đêm khuya quả là một niềm đau xót.  Nhưng “say rồi lại tỉnh”, đâu có thoát khỏi vòng quẩn quanh, bế tắc của  tâm trạng. Tỉnh ra càng chua xót, đắng cay hơn bội phần. Cả cuộc đời bà,  cuộc đời của một người luôn khao khát sự trọn vẹn, yên lành trong hạnh  phúc lứa đôi nhưng nào bao giờ có được “vầng trăng bóng xế khuyết chưa  tròn”. Trăng đã “bóng xế”- cuộc đời_ mà vẫn “khuyết” chưa tròn. Qua đó  càng khiến nỗi lòng của người cô phụ se thắt lại- nỗi buồn dai dẳng, xa  vắng lan tỏa khắp tâm hồn. Người phụ nữ chịu bao khổ đau, bị xã hội đưa  đẩy mà không tự quyết định được cho số phận của mình: “Bảy nổi ba chìm  với nước non Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn” (Bánh trôi nước) Với cương vị  là một người vợ, người phụ nữ cũng không tránh khỏi khổ cực mà xã hội  suy tàn ấy mang đến: “Một duyên hai nợ âu đành phận Năm nắng mười mưa  dám quản công” (Thương vợ) Lấy chồng duyên chỉ “một” mà nợ thì nhiều.  Người vợ phải gánh vác công việc trong gia đình. Với thân phân nhỏ bé,  đơn chiếc nhưng họ luôn bất chấp nguy hiểm, cực khổ để nuôi sống gia  đình. Người vợ lại đóng vai trò là trụ cột. Họ vì mưu sinh cuộc sống mà  phải lam lũ, vất vả, dãi nắng dầm mưa, lặn lội kiếm ăn: “Lặn lội thân cò  khi quãng vắng Eo sèo mặt nước buổi đò đông” Bà Tú một mình thân gái  nhỏ bé, yếu ớt phải lặn lội khắp nơi, bươn bả trên sông nước không có ai  trợ giúp, đỡ đần cho bà nơi hiểm nguy sông nước, chứa đầy bất chắc. Bởi  thế kiếp sống long đong lận đận của người phụ nữ ấy, tác giả đã đồng  nhất với hình ảnh thân cò lặn lội. Nhưng có thể nói, người phụ nữ Việt  Nam mang trong mình một sức sống mãnh liệt, nghị lực vươn lên trong mọi  hoàn cảnh. Sau bao đau xót, tủi nhục dường như vẫn trỗi dậy: “Xiên ngang  mặt đất rêu từng đám Đâm toạc chân mây đá mấy hòn” Ở đây, thiên nhiên  cũng bừng lên với tâm trạng con người. “Rêu” vốn là sinh vật nhỏ bé, yếu  mềm và “đá” là sự vật vô tri nhưng dưới con mắt của mình, “Bà chúa thơ  nôm” cũng thấy chúng muốn chứng tỏ sức sống của mình bằng cách “Xiên  ngang”, “đâm toạc” mặt đất, chân mây. Sự vật mà còn có thể huống chi là  người? tại sao con người lại bi quan như thế? Và ta cũng nhận thấy được  sự táo bạo trong thơ Hồ Xuân Hương: “Ví đây đổi phận làm trai được Thì  sự anh hùng há bấy nhiêu” Bà luôn khẳng định mình, bất chấp số phận  giàng buộc của xã hội phong kiến. Người vợ trong thơ Tế Xương cũng vậy,  bất chấp hoàn cảnh mà vươn lên. Không lời phàn nàn trách mọc, oán hận mà  giàu lòng vị tha và đức hi sinh. “Năm nắng mười mưa dám quản công” Vâng  ! người phụ nữ Việt Nam là thế. Ở họ chứa đựng những cảm xúc suy tư từ  cuộc đời thực của mình. Nhưng tất cả đều mang những phẩm chất, tài năng  đáng quí. Họ bày tỏ sự phẫn nộ uất ức trước duyên phận, đồng thời khát  khao được hạnh phúc, tình duyên trọn vẹn. Qua hai bài thơ ta càng thấy  ánh lên những hình ảnh cao đẹp của người phụ nữ thời xưa. Họ như những  tia sáng hào quang lan tỏa đến tâm hồn bạn đọc ở bao thế hệ. Và như thế,  thơ ca đã bắc nhịp cầu kết nối những trái tim cùng đồng cảm, cùng sẻ  chia. Văng vẳng đâu đây, dường như ta vẫn nghe được dư âm: “Cha mẹ thói  đời ăn ở bạc Có chồng hờ hững cũng như không” Nỗi đau của người phụ nữ,  nỗi buồn của một kiếp người. Nhưng ánh sáng lan tỏa từ phẩm chất cao đẹp  của họ sẽ len lỏi đến trái tim độc giả muôn đời. 
 
 
 |  
  
 
		
		
		
 
  
 | 
 |   
 
    BÁO LỖI BÀI VIẾT
 Hãy gửi cốc trà đá cho TTB tài khoản ngân hàng phía dưới hoặc paypal : 
    paypalme/tuthienbao
 Giúp có kinh phí duy trì Free  
 
 
TÌM BÀI VIẾT KHÁC SEARCH TRÊN THANH TìM KIẾM PHÍA TRÊN WEB 
 
 
		
		
		
			
				  
				
				
					
				
			
		
		
		
			
			
			
			
				 
			
			
			
			
			
			
			
				
			
			
			
		 
	
	 | 
 
 
 
 
	 
	
		
	
	
		
 
  	 	 
 
	
ADS
	
	
 
 
	
	
Miễn trừ trách nhiệm.NẾU CÓ ĐIỀU KIỆN HÃY MUA SÁCH ỦNG HỘ NHÀ XUẤT BẢN 
© Tuthienbao.com- TTB chúng tôi không cung cấp chức năng đăng ký thành viên để viết bài hay bình luận - Nếu có khiếu nại chung tôi sẽ xử lý.Mọi dữ liệu về diễn đàn trên website này đều được chúng tôi và các thành viên tham gia website tổng hợp từ  tất cả các trang website .Do đó, chúng tôi không chịu trách nhiệm về những dữ liệu được chia sẻ tại đây.Truyện Nội Dung được chia sẻ chỉ với mục đích giải trí, phi lợi nhuận. Mọi bản quyền thuộc về tác giả và nhà xuất bản gốc.Nếu có yêu cầu gỡ bỏ, xin liên hệ qua email
  
truyen tranh,
truyen tranh 8,truyen tranh hay,
truyen tranh online,
ebook,ebook ngon tinh,
van hoc lop 5,van hoc lop 6,van hoc lop 7,van hoc lop 8,van hoc lop 9,van hoc lop 10,van hoc lop 11,van hoc lop 12,
 
     |