Tìm kiếm chủ đề bài viết ở đây trước khi hỏi TTB -Tìm bằng tiếng việt có dấu càng chính xác-Ví Dụ:Đánh vào Hwang mi ri để tìm truyện tác giả này
 
Hãy ủng hộ mua bất kỳ sản phẩm trên shopee.vn truy cập Vào Đây tìm sản phẩm rồi mua, mỗi lượt mua đều giúp duy trì website hoạt động miễn phí
KHÔNG XEM ĐƯỢC ẢNH TRUY CẬP ĐỔI DNS CLICK VÀO ĐÂY 
 
   	  	 
 
 
		 
	 
 
  
	
	
		
	
	
	| 
		
		 
			
				12-09-2012, 10:21 AM
			
			
			
		 
	 | 
 
	
		
        
        
		
		        
 
                                |   	
                              
				
 				 Đầy Tớ Của Nhân Dân 
	
                 
 Facebook: https://www.facebook.com/tuthienbaocom 
		
 | 	
	
			
			 | 
	
			
	
                              
					  
					
					
					
				
			 | 
		  |  
		 
		
	 | 
 
	
	
		
	
		
		
			
			
				 
				Phân Tích bài thơ "Cảnh Ngày Hè" của Nguyễn Trãi
			 
			 
			
		
		
 
 
 
 
 
 
Bài 1 
 
Cảnh ngày hè (Bảo kính cảnh giới) là một trong những bài thơ đặc trưng  nhất cho nội dung và nghệ thuật của Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi. Bài  thơ là một bức tranh ngày hè với vẻ đẹp độc đáo, đặc sắc, là tâm hồn  Nguyễn Trãi chan chứa tình yêu thiên nhiên, yêu đời, yêu nhân dân, đất  nước. Bài thơ bình dị, tự nhiên, câu thơ lục ngôn xen thất ngôn, từ ngữ  có sức miêu tả sinh động… Trong quá trình soạn giảng thi phẩm này từ khi  thực hiện chương trình chỉnh lí hợp nhất đến chương trình thí điểm phân  ban, rồi đến chương trình phân ban đại trà hiện hành, bản thân tôi có  đôi điều trăn trở sau đây. 
 
1. Về một chữ ở câu 4: “Hồng liên trì đã tịn mùi hương” hay “Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”? 
 
Về chữ này, các nhà biên soạn sách giáo khoa Văn học 10 (chương trình  chỉnh lí hợp nhất) chọn đưa vào bản phiên là “tịn” (từ cổ, biến âm của  “tận”, nghĩa là “hết”) và nhiều tài liệu tham khảo dùng cho giáo viên và  học sinh lâu nay cũng đều phân tích, giảng bình bài thơ theo bản này.  Đến chương trình thí điểm phân ban, các nhà biên soạn sách giáo khoa Ngữ  văn 10, bộ 1, đã quyết định chọn bản phiên chữ này là “tiễn” với chú  thích như sau: 
 
“Tiễn: từ Hán Việt có nghĩa đầy, có thừa, trong câu này có thể hiểu là  ngát hoặc nức. Hai câu: “Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ - Hồng liên trì  đã tiễn mùi hương”, ý nói trong khi thạch lựu ở hiên còn đang tiếp tục  phun thức đỏ, thì sen hồng trong ao đã ngát mùi hương”. 
 
... Tóm lại, phiên chữ này ở câu 4 là tiễn và hiểu là “ngát” hoặc “nức” thì vừa có căn cứ, lại hợp với văn cảnh bài thơ hơn”. 
 
Các soạn giả còn chứng minh trong phần hướng dẫn Tiến trình tổ chức dạy học như sau: 
 
“Cây trước lầu, ngoài ao đều ở trạng thái tràn đầy sức sống, đua nhau  trổ dáng, khoe sắc, toả hương. Cây hoè trước sân, lá lục đùn đùn, tán  rợp giương ra. Cây lựu ở hiên trong khi còn liên tục phun những bông hoa  đỏ thắm, thì sen hồng ngoài ao đã kịp nức mùi hương. Lưu ý: sen nở hoa  vào mùa hè, đến mùa thu thì tàn (“Sen tàn, cúc lại nở hoa” - Truyện  Kiều). Thạch lựu cũng nở hoa vào mùa hè, mùa thu quả chín. 
 
Các từ đùn đùn (= dồn dập tuôn ra), giương (= giương rộng ra), phun,  tiễn (= ngát, nức) gợi tả sức sống căng đầy chất chứa từ bên trong tạo  vật, tạo nên những hình ảnh mới lạ, gây ấn tượng”. 
 
Theo như sách giáo viên ở trên thì cả “thạch lựu”, cả “sen” đều cùng “nở  hoa vào mùa hè”, cả hai đều đang cùng chung trạng thái “ngát, nức”,  căng đầy sức sống trong bức tranh “cảnh ngày hè” mà một bên thì “còn”,  một bên thì “đã”? Bởi vì như chúng ta biết, cặp phụ từ “còn” và “đã”  thường được người ta dùng để diễn đạt hai trạng thái nghịch chiều, so le  kiểu như: Còn nhỏ mà đã yêu với đương. Khách còn ăn, chủ đã đứng dậy.  Tôi còn muốn nói chuyện mà bạn đã ngủ…chứ rất hiếm khi nghe người ta  dùng để diễn đạt hai trạng thái thuận chiều, ăn nhịp kiểu như: “trong  khi thạch lựu ở hiên còn đang tiếp tục phun màu đỏ, thì sen hồng trong  ao đã ngát mùi hương”; “cây lựu ở hiên trong khi còn liên tục phun những  bông hoa đỏ thắm, thì sen hồng ngoài ao đã kịp nức mùi hương” ở chú  thích và gợi dẫn nói trên. 
 
Đọc đến đây, nếu ai đó vẫn băn khoăn rằng hiểu câu 4 là sen hồng ở ao đã  hết mùi hương e không hợp lắm với văn cảnh bài thơ thì nên lưu ý rằng ở  câu 6 của bài thơ còn nói đến “lầu tịch dương” - mặt trời sắp lặn đó  thôi. Phải chăng tính nhất quán, lôgic của văn cảnh nằm ở chỗ: Cảnh vật  đang ở vào khi cuối: cuối mùa, cuối ngày, nhưng sự sống thì không dừng  lại, cảnh vật vẫn cứ ứa căng, tràn đầy sức sống: cây hoè trước sân đùn  đùn tán rợp trương xanh mát một khoảng trời, thạch lựu hiên nhà phun  thức đỏ rực rỡ, phiên chợ chiều làng ngư phủ lao xao vui tai vui mắt, ve  lầu tây dắng dỏi như bản đàn tấu lên rộn rã… Một bức tranh toàn cảnh  cuối hè nơi thôn dã được chủ thể cảm nhận không chỉ bằng thị giác, khứu  giác, thính giác mà còn bằng cả tâm hồn của mình. Bức tranh đó đi vào  trang thơ đã được khúc xạ qua lăng kính chủ quan của thi nhân nhưng vẫn  tươi nguyên tính hiện thực, sinh động, cụ thể như nó vốn có. 
 
2. Về việc lựa chọn cách hiểu với hai câu cuối: Ca ngợi cảnh “Dân giàu  đủ khắp đòi phương” đã có hay ước vọng cảnh “Dân giàu đủ khắp đòi  phương” chưa có? 
 
Tác giả cuốn Tư liệu Văn 10, phần Văn học Việt Nam, viết: 
 
“Cảnh sống của nhân dân náo nhiệt tấp nập và giàu đủ nữa. Đó là cảnh  làng cá bước vào buổi chợ với những mẻ bội thu, cảnh mua bán thật tấp  nập yên vui. Không có một dấu hiệu gì của sự trì trệ, của sự mất an  ninh, của sự thiếu đói. Đúng là cảnh đời thái bình thịnh trị, rất đáng  gảy lên khúc đàn vua Thuấn. 
 
Tâm hồn Nguyễn Trãi thảnh thơi, sự thảnh thơi hiếm có giữa những trang  thơ Nôm của ông. Nhà thơ vui với cái vui của người dân lao động, vui  chân thật bình đẳng (…) Nhà thơ lạc quan với cuộc sống thiên nhiên đang  lên, đang phát triển tràn ngập màu xanh và đầy ắp đời thường no đủ”. 
 
Cũng với cách hiểu, cách luận giải theo hướng này, tác giả cuốn Giảng văn Văn học Việt Nam viết: 
 
“Nguyễn Trãi yêu thiên nhiên, nhưng trên hết vẫn là tấm lòng của ông tha  thiết với con người, với dân, với nước (…) Thật hiếm hoi khi thấy  Nguyễn Trãi có được những phút giây thanh thản. Ở đây ông có cả một  “ngày trường” thưởng thức thiên nhiên với một tâm trạng lâng lâng, sảng  khoái. Ức Trai tự giành cho mình quyền “Rồi hóng mát thuở ngày trường”  bởi niềm mơ ước, nỗi trăn trở dày vò, mục đích lớn nhất của đời ông đã  được thực hiện: dân ấm no hạnh phúc. 
 
Nhìn cảnh sống của dân, đặc biệt là người lao động - những dân chài lam  lũ - được yên vui, no đủ, Nguyễn Trãi ước có được chiếc đàn của vua  Thuấn để gẩy khúc Nam phong ca ngợi cảnh: 
 
Dân giàu đủ khắp đòi phương”. 
 
Chúng ta biết rằng, trong Quốc âm thi tập, bên cạnh phần thơ thiên nhiên  và bao trùm lên cả đề tài thiên nhiên là một chủ đề khác quan trọng  hơn: sự giãi bày những tâm sự thiết tha nhưng phải nén kín của nhà thơ.  Đặc biệt xuyên suốt những nỗi niềm tâm sự ấy có một nét nổi bật, làm  thành cảm hứng chủ đạo trong thơ Ức Trai, đó là tấm lòng yêu thương, gắn  bó với con người, với cuộc đời không lúc nào nguội lạnh, ý muốn thiết  tha giúp nước và chủ nghĩa trung quân tích cực… Quốc âm thi tập mở ra  cho người đọc thấy một trái tim đau thương cao cả, một tâm hồn rất mực  giàu có, một tình cảm biết nén nỗi buồn để lúc nào cũng có thể lạc quan  yêu đời. 
 
Nguyễn Trãi suốt đời đau đáu một hoài bão lớn: làm gì để “yên dân”,  người dân lầm than khổ cực được yên vui, an lành, no ấm, hạnh phúc trong  “nền thái bình muôn thuở”. Đáng tiếc, quan lộ của Nguyễn Trãi không mấy  yên ổn, nên ông không có đủ cơ hội đem tất cả chí hướng và tài năng của  mình cống hiến cho nước, cho dân. Khi đã không còn được trọng dụng, đã  lui về bầu bạn cùng thiên nhiên trong sạch và tràn đầy sức sống, lòng  Nguyễn Trãi vẫn không nguôi hướng về cuộc đời sôi động còn bao nỗi cay  đắng, bất công, vẫn thiết tha mong muốn lại được mang tài trí của mình  ra giúp đời giúp nước: 
 
Bui một tấc lòng ưu ái cũ 
 
Đêm ngày cuồn cuộn nước triều dâng. 
 
Diễn giải như thế để chúng ta có thể thấy cách hiểu của Nguyễn Thành  Chương và Lã Nhâm Thìn trong các phần trích dẫn trên đây, đặc biệt là ở  những chỗ đã được người viết bài này gạch chân, về hai câu cuối bài Cảnh  ngày hè là không ổn. Các cách hiểu sau đây giàu sức thuyết phục hơn: 
 
Cách hiểu của Đoàn Đức Phương trong Học văn lớp 10, NXB Giáo dục, 1995: 
 
“Hai câu cuối kết đọng biết bao suy tư của nhà thơ. Ông vui với thiên  nhiên, với con người, nhưng hơn thế ông còn khao khát hành động để giúp  đời giúp nước. Niềm khao khát ấy thể hiện ở ước mơ có được cây đàn của  vua Thuấn để ca ngợi cảnh thái bình, hay nói đúng hơn, đó là ước mơ: làm  sao có được một triều đại thái bình thịnh trị như đời Nghiêu Thuấn để  nhân dân muôn nơi được sống trong sung sướng, hạnh phúc, yên vui. Ước mơ  xuất phát từ những gì chưa có. Thời Nguyễn Trãi chưa có cảnh: “Dân giàu  đủ khắp đòi phương”. Do đó hai câu thơ nặng trĩu đau đời và sâu lắng  một tinh thần trách nhiệm cao cả”; 
 
Và cách hiểu của các soạn giả Sách giáo viên Ngữ văn 10 của chương trình  thí điểm phân ban, bộ 1, cũng như của chương trình nâng cao, phân ban  đại trà hiện hành: 
 
“Ông (tức Nguyễn Trãi – HĐK chú thích) lẽ ra lúc này phải có cây đàn của  vua Thuấn, đàn một tiếng để nói lên niềm mong mỏi lớn nhất của mình là  dân chúng khắp nơi đều được giàu có, no đủ”... 
Tóm lại, về bài thơ Cảnh ngày hè (Bảo kính cảnh giới, bài số 43) của  Nguyễn Trãi, các nhà biên soạn nên chọn đưa vào chương trình bản phiên  chữ thứ 5 của câu 4 là “tịn” (tận, hết) để thể hiện được ý nghĩa của cặp  phụ từ “còn” – “đã” trong câu này và câu 3 đứng trước, thể hiện được  bức tranh trong bài thơ là bức tranh ngày hè độ cuối mùa còn căng tràn  sức sống với tất cả tính chân thực, sinh động, cụ thể của nó. Người dạy,  người học nên chọn cách hiểu đối với hai câu cuối là ước vọng của  Nguyễn Trãi về viễn cảnh “Dân giàu đủ khắp đòi phương” để phù hợp hơn  với cảm hứng chủ đạo trong Quốc âm thi tập, với thực tế lịch sử -xã hội  thời đại Nguyễn Trãi, với tấm lòng đau đáu khát vọng “yên dân”, với  những uẩn khúc của một nhà nho tinh thần trách nhiệm cao cả nhưng không  còn cơ hội thực hiện trọn vẹn lý tưởng đời mình, với cái tình thế nhàn  cư mà chẳng nhàn tâm trong những ngày dài “nhàn quan” của vĩ nhân Ức  Trai Nguyễn Trãi         Bài 2: 
 
Nguyễn Trãi đã sống một cuộc đời mà cả hạnh phúc lẫn thương đau đều được  đẩy đến tột cùng. Trong khoảng thời gian đời người hơn 60 năm, thi nhân  đã để lại một gia sản vô cùng quý giá. 
 
Chỉ tính riêng trong lĩnh vực văn chương, lời nhận định kia đã không có  gì là thái quá. Trước tác của Ức Trai có thơ, có văn, lại có cả lịch sử,  địa lí nữa. Ở mảng thơ, bên cạnh tập thơ chữ Hán nổi tiếng Ức Trai thi  tập, thiết nghĩ còn cần phải đặc biệt chú ý vị trí vai trò của tập Quốc  âm thi tập. Tác phẩm xưa nhất bằng Việt ngữ mà chúng ta còn giữ được  này, không những chiếm địa vị quan trọng trong lịch sử văn học nước nhà  mà còn là tài liệu chủ yếu để nghiên cứu lịch sử phát triển của ngôn ngữ  nước ta. Gồm những bài thơ viết rải rác trong suốt cuộc đời, Quốc âm  thi tập đã giúp người đọc khai mở nhiều phần sâu kín trong tâm hồn người  thi sĩ bất hạnh vào loại bậc nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam.  
 
Quốc âm thi tập có một cấu trúc chỉnh thể với 4 phần. Trong đó phần vô  đề gồm toàn bộ những bài thơ không có tựa đề, được chia thành các nhóm :  ngôn chí, mạn thuật, trần tình, thuật hứng, tự thán, bảo kính cảnh  giới… Chùm thơ Bảo kính cảnh giới (Gương báu răn mình - bài 43 luyến láy  dumình) có 61 bài. Những câu thơ trong Bảo kính cảnh giới dương, có  chút vui điểm vào cuộc đời đầy u uất của thi nhân Nguyễn Trãi.  
 
Được tổ chức theo kiểu một bài thất ngôn bát cú nhưng bài thơ lại mở đầu  bằng một câu thơ thất luật, ngắt nhịp tự do, tự nhiên như lời nói  thường ngày :  
 
Rồi/ hóng mát/ thuở ngày trường  
 
Khởi hứng bằng một tâm thế - tâm thế của một con người an nhàn hưởng thụ  (thiên nhiên). Bài thơ có lẽ được làm trong một lần Nguyễn Trãi về ở  Côn Sơn (theo Đào Duy Anh, trong đời mình Nguyễn Trãi có nhiều lần về ở  Côn Sơn). Rũ sạch bụi lầm của chốn phồn hoa đô hội, con người đến với  thiên nhiên tự do, tự tại, giản dị không gò ép. Phải chăng, vì thế mà  câu thơ cũng vuột ra khỏi cái khuôn khổ của thơ luật để giản dị, nhẹ  nhàng như chính con người và cuộc sống chốn sơn lâm.  
 
Câu thơ nhẹ nhàng gợi nghĩ đến hình ảnh một vị tiên đồng, đạo cốt. Từ  rồi (có bản chép là rỗi) kết hợp với ngày trường cộng hưởng với nhịp thơ  kéo giãn thời gian của một ngày. Cảm giác thư thái cũng theo đó mà ngân  nga.  
 
Nguyễn Trãi không phải người không biết giới hạn. Có nhiều lần ông đã  bày tỏ ý nguyện "công thành thân thoái". Nếu phải viện đến lí do thì có  lẽ nhiều người sẽ nghĩ đến sự gắn bó rất chân thành của tác giả với  thiên nhiên. Những bức tranh thiên nhiên mà tác giả đã say sưa nét vẽ  như ở trong bài thơ này đã chứng tỏ một điều cuộc sống đâu phải cứ giàu  có thì sang trọng :  
 
Hoè lục đùn đùn tán rợp giương  
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ 
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương 
 
Cuộc sống của thi nhân là vậy. Cả cuộc đời nghèo khó, nhưng đó chỉ là ở phương diện vật chất mà thôi.  
 
Nhìn vào thi liệu thì bức tranh tất được vẽ vào lúc cuối hè : hoa lựu  đang rộn ràng chuyển sang màu đỏ rực, sen thì đã tiễn mùi hương. Việc  lựa chọn thời gian nghệ thuật cũng như cách thức miêu tả thiên nhiên hẳn  không phải là chuyện ngẫu nhiên. Lá hoè ngả sang màu lục, um tùm dồn  lại thành từng khối lá xanh, toả rộng, che rợp cả mặt sân. Hoa lựu không  còn nhạt mà rực rỡ như những chùm lửa đỏ. Sau này Nguyễn Du cũng dùng  hoa lựu để nói cái oi bức, rực nóng của mùa hè :  
 
Dưới trăng quyên đã gọi hè,  
Đầu tường lửa lựu lập loè đơm bông. 
 
Dưới những ao đầm, hoa sen hồng đã nở rộ xen giữa những chiếc lá mát  xanh, cả đầm sen đưa hương thơm ngát. Điểm vào cái không gian ấy là  tiếng ve kêu ồn ã như đang trút hết mình cho phút chiều tà. Nếu mùa xuân  là mùa cây cối đâm chồi nảy lộc thì mùa hạ là lúc trưởng thành. Đặc  biệt cuối hè là lúc nó phô diễn một sức sống căng đầy, sung mãn nhất của  sự trưởng thành. Nó bắt đầu kết trái cho mùa thu để rồi chuẩn bị cho sự  hoá thân vào mùa đông. Thiên nhiên trong bài thơ này là thế : dường như  nó đang ở trạng thái căng đầy nhất. Một bức tranh thiên nhiên đủ gợi  cho chúng ta liên tưởng về một cuộc sống ấm no, đủ đầy.  
 
Hài hoà cùng thiên nhiên là cuộc sống sinh hoạt thường nhật của người lao động :  
 
Lao xao chợ cá làng ngư phủ  
 
Hàm ý của câu thơ dồn cả vào cái âm thanh của chợ cá. Sự náo nhiệt của  chợ cá gợi lên sự liên tưởng về cuộc sống no ấm thanh bình của người  dân. Bởi chợ cá ở đây rất có thể chỉ là một góc chợ quê, mà âm thanh vẫn  rộn ràng náo nhiệt vô cùng.  
 
Làm theo thể thất ngôn bát cú nhưng kết cấu đề - thực - luận - kết xem  ra không phải là lựa chọn hợp lí để tiếp cận bài thơ này. Bài thơ có thể  được chia theo bố cục 6/2. Trên là vẻ đẹp của thiên nhiên và âm thanh  cuộc sống, dưới là ước vọng của nhà thơ :  
 
Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,  
Dân giàu đủ khắp đòi phương. 
 
là một mô típ thường thấy trong thơ Nguyễn Trãi. Một tấc lòng ái ưu luôn  chỉ chực dâng lên cùng sóng nước. Câu thơ gắn với một điển tích. Ở  Trung Quốc thời cổ đại có một triều đại lí tưởng (thực chất là một cộng  đồng người nguyên thuỷ sống theo bộ tộc) được đời đời truyền tụng như là  một hình mẫu đẹp - thời vua Nghiêu Thuấn. Vua Thuấn có cây đàn (gọi là  Ngu cầm). Vua thường hay dạo khúc Nam phong trong đó có câu "Nam phong  chi thì hề khả dĩ phụ ngô dân chi tài hề" nghĩa là "gió nam thuận thì có  thể làm cho dân ta thêm nhiều của". Mượn một điển tích, Nguyễn Trãi đã  không giấu được sự vui mừng khi thấy dân chúng khắp nơi đang được đủ đầy  no ấm.  
 
Câu thơ cuối cùng tương ứng với câu đầu, vượt ra khỏi luật Đường. Nhịp  thơ 3/3 ngắn gọn, dứt khoát, thể hiện ước vọng chân thành của Nguyễn  Trãi, mong sao ở mọi nơi, cuộc sống thanh bình no ấm sẽ đến với mọi  người.  
 
Câu nói của người xưa "Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc  nhi lạc" (lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ)  thật hợp với cuộc đời Nguyễn Trãi. Một cuộc đời trọn tình, vẹn nghĩa với  nước với dân.  
 
 
Trần Thánh Tông (1240 - 1290) cũng có bài thơ Hạ cảnh (Cảnh mùa hạ) :   
 
Yểu điệu hoa đường, trú cảnh tràng  
Hà hoa suy khởi bắc song lương 
Viên lâm vũ quá, lục thành ác 
Tam lưỡng thuyền thanh náo tịch dương. 
 
Dịch nghĩa :  
 
Cảnh trí ở hoa đường êm dịu, ngày mùa hè lại dài  
(Khi ấy) có luồng gió lùa qua cửa sổ phía Bắc, thoảng mùi hoa sen thơm mát 
Khi cơn mưa đã tạnh, cây cỏ trong rừng, trong vườn xanh tươi um tùm coi như bức màn màu xanh che phủ vậy 
(Ngồi ngắm cảnh hoa đường) biết bao vui vẻ, thỉnh thoảng lại có hai ba  tiếng ve sầu du dương như nhịp sáo ở dưới bóng nắng chiều hôm. 
 
Dịch thơ :  
 
Hoa đường êm dịu ngày dài  
Gió lùa cửa bắc thoảng mùi hương sen 
Tạnh mưa xanh ngát cây vườn 
Giọng ve ánh ỏi ngâm rền chiều hôm. 
(Vũ Huy Chiểu dịch, Hoàng Việt thi tuyển trích dịch, 
Đại học Sư phạm Sài Gòn, 1965) 
  
Bài 3: 
Trong nền văn học thế giới, chúng ta đã được trải nghiệm và cảm nhận  những “tảng văn” đầy xúc động và sâu sắc. Nhắc đến nước Nga, người đời  lại tìm đến Đại thi hào Puskin với “Tôi yêu em”. Nhắc đến nền văn học  lãng mạng của Anh Quốc, người ta lại tìm đến tác phẩm bi đát “ROMEO  & JULIET” của Shakespeare… Vậy mỗi khi nhắc đến Việt Nam, có lẽ  người ta sẽ không thể không nhắc đến Nguyễn Trãi – một nhà thơ vĩ đại,  đại diện cho nền Văn học Trung đại Việt Nam. Ông đã để lại cho đời biết  bao là tập thơ hay : “Ức Trai thi tập ; Quốc Âm thi tập ; …” với tên  hiệu là Ức Trai. Và “BẢO KÍNH CẢNH GIỚI (Cảnh ngày hè)” cũng không phải  là một ngoại lệ cho sự sáng tạo đối với một con người yêu thiên nhiên,  đất nước, dân tộc. Ông đã sáng tác bài thơ này và đặt trong tập thơ  “Quốc Am thi tập” trong một ngày rảnh rỗi bất đắc dĩ… 
  
“Rồi hóng mát thuở ngày trường 
………………….. 
Dân giàu đủ khắp đòi phương” 
  
Mở đầu bài thơ, Ức Trai đã cho ta cảm nhận được hình ảnh vô cùng sinh  động, kết hợp với việc sự dụng từ ngữ miêu tả rất chân thực, giàu tính  tạo hình của ông ta. Có lẽ ta sẽ tự hỏi rằng : “Nguyễn Trãi là một con  người vì dân, vì nước, bận bịu “tối mắt tối mũi” mà lại có thời gian  rảnh rỗi để ngắm những quang cảnh gay gắt trong một ngày hè khắc nghiệt ?  Phải chăng cái “rỗi” ở đây là cảm giác thảnh thơi thật sự, hay là sự  chán nản, nỗi buồn u uất của “ngày trường” ? Đó là một ngày bất đắc dĩ ở  vùng thôn quê hẻo lánh, nơi mà ông rút về sau khi không còn được trọng  dụng để giúp dân giúp nước. Tuy nhiên, ông cũng không phải là một người  bi quan mà luôn “mài giũa” niềm tin và suy nghĩ về cuộc sống thái bình  thịnh vượng cho dân chúng. Do đó, ông đã nhận ra được vẻ đẹp của thiên  nhiên chốn quê nhà… 
  
Tiếp đó, chúng ta có thể cảm nhận ngòi bút tinh tế của ông qua những  hình ảnh “hoè, thạch lựu, hồng liên” trong ba câu thơ sau : “…Hoè lục  đùn đùn tán rợp giương / Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ / Hồng liên trì  đã tiễn mùi hương…”. TRước hết, cây hoè là một loại cây có tán cao, to.  Một màu xanh thoáng đãng từ những nhành hoa “đùn đùn” vươn lên tạo cho  ta sự cảm nhận “cái đẹp” không riêng gì tác giả. Đó là sự nhanh nhẹn,  hồn nhiên của những cây “hoè” qua từ ngữ “đùn đùn”. Bức tranh thiên  nhiên ngay ở câu thơ này đã cho ta thấy được sự sinh động của một khung  cảnh – thoạt nhiên không có gì đáng bàn. 
  
Cùng những hình ảnh mát dịu của màu xanh hi vọng, màu xanh thanh khiết  chính là “lựu” với màu đỏ chói loá trước ánh mặt trời chói chang của một  buổi trưa hè, cùng với những “cánh sen hồng” nhẹ nhàng, xinh xắn, mặc  cho thời gian đang cướp đi sự tinh khôi của chúng qua mùi hương ngào  ngạt… Tác giả đã dùng động từ “phun” cho những bông “hoa lựu” vô tri vô  giác này, tạo cho ta cảm nhận được “sự vận động” của thiên nhiên trong  khung cảnh hôm nay. Ngoài ra, Ức Trai lại sử dụng từ “tiễn” để làm tăng  giá trị xúc cảm lên gấp nhiều lần. Hình ảnh màu đỏ rực rỡ này có thể làm  ta nhớ tới hình ảnh đối lập của đêm hè dịu mát trong Truyện Kiều của  Nguyễn Du: ”Dưới trăng quyên đã gọi hè / Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm  bông”… 
  
Với những cảm nhận nhẹ nhàng và xúc tích ấy, ta thấy được Nguyễn Trãi có  một tình yêu thiên nhiên thật vĩ đại. Ông là người sống với thiên nhiên  và sống bằng thiên nhiên, với tất cả những gì ông có được. Phải chăng  “từng hơi thở” của ông, đều gắn bó với thiên nhiên tuyệt vời ? Từng giác  quan của ông được tạo hoá ban tặng để ca tụng vẻ đẹp của thiên nhiên ?… 
  
Vâng, sau bức tranh thiên nhiên mùa hè chói chang được miêu tả dưới ngòi  bút tinh tế của Nguyễn Trãi rất sinh động thì những hình ảnh, âm thanh  của cảnh chiều tà được trau chuốt qua hai câu thơ : “Lao xao chợ cá làng  ngư phủ / Rắng rỏi cầm ve lầu tịch dương” đã đánh thức được nỗi u hoài  về hiện thực đương đại. Nghệ thuật dùng từ tượng thanh “Lao xao” và  “Rắng rỏi” đã vẽ lên cho ta một buổi chiều hè, kết thúc một ngày  “trường” chán nản của Nguyễn Trãi.Những âm thành “lao xao”, ồn ào của  khu chợ đang dần nhường chỗ cho những tiếng “rúc rích” như tiếng đàn  “cầm” của loài ve thích ca hát. Ông đã ví những âm thanh hỗn tạp đó như  giai điệu du dương, trong vắt của một buổi chiều, khi ánh hoàng hôn bắt  đầu biến mất sau rặng núi cao, nhường lại quyền kiểm soát cho màn đêm  lạnh lẽo thống lĩnh cả một vùng rộng lớn… 
  
Và khi màn đêm lạnh lẽo hiện diện trước mắt Ức Trai thì cũng là lúc nỗi u  uẩn không bao giờ nguôi bắt đầu tái hiện trong ông. Đó là niềm tha  thiết giúp dân giúp nước mà không được ai cho phép, không được ai trọng  dụng. Nỗi buồn đó được Nguyễn Trãi thể hiện qua hai câu thơ kế tiếp của  “Cảnh Ngày Hè” : “Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng / Dân giàu đủ khắp đòi  phương”. Từ ngữ “dẽ có” được nhà thơ dùng như một sự lo lắng, sự băn  khoan. Ông muốn được một lần thực hiện ước muốn nhỏ nhoi của mình – một  ước muốn mà bất cứ vị hiền tài nào cũng muốn làm cho đất nước. Đó là  Được một lần cầm trên tay cây đàn Ngũ huyền của Vua Ngu Thuấn, và đàn  lên khúc nhạc Nam Phong để “mưa thuận, gió hoà” ; để nhân dân được hưởng  sự ấm no hạnh phúc. Đối với Ức Trai, dân tộc Việt Nam như là một món nợ  lớn, một món nợ mà suốt đời không thể trả được… Nguyễn Trãi đã đặt cái  “nợ” giang sơn, dân tộc lên làm mục đích phấn đấu hoàn thiện bản thân.  Thật đáng tự hào cho một ý chí và lí tưởng cao đẹp của người nam nhi  thời phong kiến (Thuật Hoài – Phạm Ngũ Lão). 
  
Kết thúc bài thơ, ta cảm nhận được những giá trị chân thực của khung  cảnh thiên nhiên ngày hè nóng bức qua trí sáng tạo hơn người của Nguyễn  Trãi. Ông đã vận dụng thuần thục thể thơ thất ngôn Đường luật với niêm  luật chặt chẽ của Trung Hoa Đại Lục – Và tạo cho nó những nét phá cách  vô cùng độc đáo, cũng như là cách ngắt nhịp, cách phân đoạn không theo  thể thơ truyền thống (Đề – Thực – Luận – Kết). Nổi bật trên hết là câu  thơ 6 chữ cuối bài đã làm nổi bật lên tâm sự của nhà thơ trong một ngày  hè chán chường… 
  
Nói tóm lại, Nguyễn Trãi là một nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam, là  niềm tự hào không chỉ riêng nên Văn học Trung đại. Qua những câu thơ và  tinh thần cao cả được gởi gắm trong “Bảo Kính cảnh giới”, ta thật khâm  phục cho những ý nghĩ và việc làm nhân nghĩa của ông. Những giá trị nhân  văn sâu sắc và những lí tưởng cao đẹp vì dân vì nước của Nguyễn Trãi từ  xưa đến nay vận mang nhiều triết lý sống, đáng để con cháu Việt Nam ta  học tập và phát huy. Đó sẽ luôn là bài học không bao giờ cũ, bài học yêu  nước thương dân.                                           
  
Bài 4 
   
   
  
   
   
  
Bài 5: 
Rồi hóng mát thuở ngày trường Hòe lục đùn đùn tán rợp giương Thạch lựu  hiên còn phun thức đỏ Hồng liên trì đã tiễn mùi hương Lao xao chợ cá  làng ngư phủ Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng  Dân giàu, đủ khắp, đòi phương. 1. Mở bài: - Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi  là bài số 43 trong trùm thơ bảo kính cảnh giới của Quốc âm thi tập. -  Bài thơ cho ta thấy vẻ đẹp bức tranh thiên nhiên và tấm lòng yêu nước  thương dân của tác giả. 2. Thân bài: - Vẻ đẹp bức tranh thiên nhiên là  cuộc sống ngày hè: + Cây hòe màu xanh lục có tán lá giương cao che rợp. +  Cây thạch lựu bên hiên nhà đang tràn trề sắc đỏ. + Hoa sen màu hồng  đang tỏa ngát hương thơm. → Qua những chi tiết trên ta thấy cảnh vật  tươi tắn, rực rỡ. + Vơi động từ : rợp, phun, tiễn ta thấy cảnh vật ngày  hè sinh sôi nảy nở. + Cùng với từ lấy: đùn đùn, lao xao, dắng dỏi đã tô  thêm bức tranh ngày hè sôi động náo nhiệt. + Tác giả đã sử dụng đảo ngữ:  lao xao chợ cá, dắng dỏi cầm ve cho ta thấy cuộc sống yên bình, hạnh  phúc, ấm no. + Nhà tha đã cảm nhận bức tranh ngày hè bằng thị giác nhìn  thấy cây hòe màu xanh lục, thạch lựu màu đỏ, hoa sen màu hồng, những chú  ve, người dân làng chài + Ngoài ra nhà thơ đã nghe thấy âm thanh những  người dân làng chài cười nói và tiếng ve râm ran trong chiều ta như  tiếng đàn dội lên. + Nhà thơ còn ngửi thấy mùi thơm ngào ngạt của hoa  sen → Qua những hình ảnh trên, ta thấy Nguyễn Trãi là người yêu thiên  nhiên, yêu đời, yêu cuộc sống. - Ta thấy được tác giả ung dung dạo chơi  ngắm cảnh qua câu “ rồi hóng mát thuở ngày trường”. - Tác giả luốn nghĩ  về dân về nước. - Tác giả mong ước có cay đàn của vua ngu thuấn để hát  ca ngợi cuộc sống thái bình. - Lúc nào, Nguyễn Trãi cũng khao khát mang  lại cuộc sống hạnh phúc ấm no cho dân. - Nhà thơ là người yêu nước  thương dân. 3. Kết bài: Bài làm mẫu mở bài các câu sau nhớ làm giùm tôi  có vị ngữ chủ ngữ, thêm từ ngữ cũng đc ví dụ : Tác giả cho ta thấy… Bài  tham khảo 1 Trong những ngày từ quan về ở ẩn tại Côn Sơn, Nguyễn Trãi đã  viết nhiều bài thơ đặc sắc, trong số đó có bài số 43 trong chùm thơ Bảo  kính cảnh giới. Bài thơ là bức tranh phong cảnh mùa hè độc đáo nhưng  thấp thoáng là niềm tâm sự của tác giả. Câu thơ đầu tiên, ta đọc lên  thoáng qua sao có vẻ an nhàn, êm đềm, thanh thoát đến thế. “Rồi hóng mát  thuở ngày trường” Câu thơ hiện lên hình ảnh của nhà thơ Nguyễn Trãi,  ông đang ngồi dưới bóng cây nhàn nhã như hóng mát thật sự. Việc quân,  việc nước chắc đã xong xuôi ông mới trở về với cuộc sống đơn sơ, giản  dị, mộc mạc mà chan hòa, gần gũi với thiên nhiên. Một số sách dịch là  “Rỗi hóng mát thuở ngày trường”. Nhưng “rỗi” hay “rồi” cũng đều gây sự  chú ý cho người đọc. Rảnh rỗi, sự việc còn đều xong xuôi, đã qua rồi  “Ngày trường” lại làm tăng sự chú ý. Cả câu thơ không còn đơn giản là  hình ảnh của Nguyễn Trãi ngồi hóng mát mà nó lại toát lên nỗi niềm, tâm  sự của tác giả: “Nhàn rỗi ta hóng mát cả một ngày dài”. Một xã hội đã bị  suy yếu, nguyện vọng, ý chí của tác giả đã bị vùi lấp, không còn gì  nữa, ông đành phải rời bỏ, từ quan để về ở ẩn, phải dành “hóng mát” cả  ngày trường để vơi đi một tâm sự, một gánh nặng đang đè lên vai mình. Cả  câu thơ thấp thoáng một tâm sự thầm kín, không còn là sự nhẹ nhàng  thanh thản nữa. Về với thiên nhiên, ông lại có cơ hội gần gũi với thiên  nhiên hơn. Ông vui thú, say mê với vẻ đẹp của thiên nhiên. “Hòe lục đùn  đùn tán rợp giương Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ Hồng liên trì đã tiễn  mùi hương”. Cảnh mùa hè qua tâm hồn, tình cảm của ông bừng bừng sức  sống. Cây hòa lớn lên nhanh, tán cây tỏa rộng che rợp mặt đất như một  tấm trướng rộng căng ra giữa trời với cành lá xanh tươi. Những cây thạch  lựu còn phun thức đỏ, ao sen tỏa hương, màu hồng của những cánh hoa  điểm tô sắc thắm. Qua lăng kính của Nguyễn Trãi, sức sống vẫn bừng bừng,  tràn đầy, cuộc đời là một vườn hoa, một khu vườn thiên nhiên muôn màu  muôn vẻ. Cảnh vật như cổ tích có lẽ bởi nó được nhìn bằng con mắt của  một thi sĩ đa cảm, giàu lòng ham sống với đời. Qua cảnh mùa hè, tình cảm  của Nguyễn Trãi cũng thể hiện một cách sâu sắc: “Lao xao chợ cá làng  ngư phủ Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”. “Chợ” là hình ảnh của sự thái  bình trong tâm thức của người Việt. Chợ đông vui thì nước thái bình,  thịnh trị, dân giàu đủ ấm no: chợ tan rã thì dễ gợi hình ảnh đất nước có  biến, có loạn, có giặc giã, có chiến tranh, đao binh. lại thêm tiếng ve  kêu lúc chiều tà gợi lên cuộc sống nơi thôn dã. Chính những màu sắc nơi  thôn dã này làm cho tình cảm ông thêm đậm đà sâu sắc và gợi lại ý tưởng  mà ông đang đeo đuổi. “Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng Dân giàu đủ khắp đòi  phương”. “Dân giàu đủ”, cuộc sống của người dân ngày càng ấm no, hạnh  phúc là điều mà Nguyễn Trãi từng canh cánh và mong ước. Ở đây, ông đề  cập đến Ngu cầm vì thời vua Nghiêu, vua Thuấn nổi tiếng là thái bình  thịnh trị. Vua Thuấn có một khúc đàn “Nam Phong” khảy lên để ca ngợi  nhân gian giàu đủ, sản xuất ra nhiều thóc lúa ngô khoai. Cho nên, tác  giả muốn có một tiếng đàn của vua Thuấn lồng vào đời sống nhân dân để ca  ngợi cuộc sống của nhân dân ấm no, vui tươi, tràn đầy âm thanh hạnh  phúc. Những mơ ước ấy chứng tỏ Nguyễn Trãi là nhà thơ vĩ đại có một tấm  lòng nhân đạo cao cả. Ông luôn nghĩ đến cuộc sống của nhân dân, chăm lo  đến cuộc sống của họ. Đó là ước mơ vĩ đại. Có thể nói, dù triều đình có  thể xua đuổi Nguyễn Trãi nhưng ông vẫn sống lạc quan yêu đời, mong sao  cho ước vọng lí tưởng của mình được thực hiện để nhân dân có một cuộc  sống ấm no. Bài thơ này đã làm rõ nỗi niềm tâm sự của Nguyễn Trãi trong  thời gian ở Côn Sơn với tấm lòng yêu nước thương dân vẫn ngày đêm “cuồn  cuộn nước triều Đông”. Ông yêu thiên nhiên cây cỏ say đắm. Và có lẽ  chính thiên nhiên đã cứu Nguyễn Trãi thoát khỏi những phút giây bi quan  của cuộc đời mình. Dù sống với cuộc sống thiên nhiên nhưng ức Trai vẫn  canh cánh “một tấc lòng ưu ái cũ”. Nguyễn Trãi vẫn không quên lí tưởng  nhàn dân, lí tưởng nhân nghĩa, lí tưởng: mong cho thôn cùng xóm vắng  không có một tiếng oán than, đau sầu. Bài tham khảo 2 Nguyễn Trãi là vị  anh hùng tên tuổi lẫy lừng trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta.  Tài năng kiệt xuất của ông không chĩ được khẳng định trong lĩnh vực  chính trị, quân sự, ngoại giao mà còn được khẳng định qua sự nghiệp văn  chương đồ sộ với những đóng góp lớn lao cho nền văn học nước nhà. Lí  tưởng mà Nguyễn Trãi ôm ấp lá giúp vua làm cho đất nước thái bình, nhân  dân thịnh vượng. Lí tưởng cao đẹp ấy là nguồn động viên mạnh mẽ khiến  ông vượt qua mọi thử thách, gian nan trên đường đời. Lúc được nhà vua  tin dùng cũng như khi thất sủng, nỗi niềm lo nước, thương dân luôn canh  cánh bên lòng ông. Giông bão cuộc đời không thể dập tắt nổi ngọn lửa  nhiệt tình trong tâm hồn người chí sĩ tài đức vẹn toàn ấy. Bài thơ Cảnh  ngày hè được sáng tác vào thời gian Nguyễn Trãi về nghỉ ở Côn Sơn. Ông  tạm thời xa lánh chốn kinh đô tấp nập ngựa xe và chốn cửa quyền hiểm hóc  để về với thiên nhiên trong trẻo, an lành nơi thôn dã, bầu bạn cùng dân  cày cuốc, cùng mây nước, chim muông, hoa cỏ hữu tình. Trong những tháng  ngày dài nhàn nhã “bất đắc dĩ ấy, nhà thơ có lúc thấy vui trước cảnh  vật mùa hè tưng bừng sức sống và kín đáo gửi vào những vần thơ tả cảnh  một thoáng khát vọng mong cho dân giàu, nước mạnh. Bài thơ phản ánh tâm  hồn Nguyễn Trãi chan chứa tình yêu thiên nhiên, yêu đời, yêu nhân dân,  đất nước. Bài thơ mở đầu bẵng câu lục ngôn nêu rõ hoàn cảnh của nhà thơ  lúc đó: Rỗi / hóng mát / thuở ngày trường. Lẽ ra câu thơ phải bảy chữ  mới đúng là thể thất ngôn bát cú quen thuộc, song Nguyễn Trãi đã lược đi  một chữ. Đây cũng là một cách tân táo bạo, mới mẻ trong thơ Nôm nước ta  thuở ấy. Nhịp thơ 1/2/3, chậm rãi phản ánh tư thế ung dung, tự tại vốn  có của tác giả. Chữ Rỗi tách riêng thành một nhịp thể hiện cảm nhận của  tác giả về tình cảnh của mình. Rỗi là từ cổ, cổ nghĩa là nhàn nhã, không  vướng bận điều gì. Cuộc đời Nguyễn Trãi thường không mấy lúc được thảnh  thơi. Đây là lúc ông được sống ung dung, được thỏa ước nguyện hòa mình  với thiên nhiên mà ông hằng yêu mến. Không có việc gì quan trọng, cần  kíp để làm cả, chỉ có mỗi “việc” là hóng mát. Ngày trường là ngày dài.  Đây là cảm giác tâm lí về thời gian của người đang sống trong cảnh nhàn  rỗi, thấy ngày dường như dài ra. Với con người ưa suy nghĩ, hành động  như Nguyễn Trãi thì cảm giác ấy càng rõ hơn bao giờ hết. Giữa lúc xây  dựng lội non sông sau chiến tranh, việc dân việc nước bời bời mà ông bị  bắt buộc phải hóng mát hết ngày này qua ngày khác thì quả là trớ trêu,  Bởi vậy, ông rơi vào cảnh thân nhàn mà tâm bất nhàn. Đằng sau câu thơ  trên dường như thấp thoáng một nụ cười chua chát của Nguyễn Trãi trước  tình cảnh trớ trêu ấy. Chỉ có vẻ đẹp hồn nhiên, vô tư của cảnh vật mới  có thể tạm xua đi những áng mây buồn vướng vít trong tâm hồn ông. Ông mở  lòng đón nhận thiên nhiên và thấy vui trước cảnh: Hòe lục đùn đùn tản  rợp giương. Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ, Hồng liên trì đã tiễn mùi  hương. Chi vài nét bút phác họa mà bức tranh quê đã hiện lên tươi khỏe,  hài hoà. Cây trước sân, cây trong ao đều ở trạng thái tràn đầy sức sống,  đua nhau vươn lên khoe sắc, tỏa hương. Cây hòe với tán lá xanh um xoè  rộng, trong khi cây lựu nở đầy những bông hoa đỏ thắm và sen hồng đã nức  mùi hương. Sức sống trong cây đang đùn đùn dâng lên cành, lên lá, lên  hoa. Cây tỏa bóng rợp xuống mặt sân, tỏa luôn bóng mát vào hồn thi sĩ.  Ba câu thơ nổi đến ba loại cây: hòe, lựu, sen nhưng chẳng lẽ tác giả chỉ  nói đến cây? Dường như có cả con người lồng trong đó, hết sức kín đáo.  Các từ đùn đùn, (dồn dập tuôn ra) giương (toả rộng ra), phun, tiễn  (ngát, nức) gợi tả sức sống căng đầy chất chứa bên trong sự vật, tạo nên  những hình ảnh mới lạ, ấn tượng. Câu thơ thứ hai ngắt nhịp 4/3. Hai câu  thơ tiếp theo đổi nhịp thành 3/4, tạo thêm cho cảnh vật vẻ sinh động,  rộn ràng. Giữa cảnh với người có nét tương đồng nào chăng? Đời người anh  hùng cũng đã vơi nhưng giống như hàng tùng bách dày dạn tuyết sương nên  sức sống vẫn chảy mạnh trong huyết quản. Thức đỏ (màu đỏ) của hoa lựu  phải chăng là thức đỏ của tấm lòng sắt son với dân với nước?! Mùi hương  thơm ngát. 
   
 
 |  
  
 
		
		
		
 
  
 | 
 |   
 
    BÁO LỖI BÀI VIẾT
 Hãy gửi cốc trà đá cho TTB tài khoản ngân hàng phía dưới hoặc paypal : 
    paypalme/tuthienbao
 Giúp có kinh phí duy trì Free  
 
 
TÌM BÀI VIẾT KHÁC SEARCH TRÊN THANH TìM KIẾM PHÍA TRÊN WEB 
 
 
		
		
		
			
				  
				
				
					
				
			
		
		
		
			
			
			
			
				 
			
			
			
			
			
			
			
				
			
			
			
		 
	
	 | 
 
 
 
 
	 
	
		
	
	
		
 
  	 	 
 
	
ADS
	
	
 
 
	
	
Miễn trừ trách nhiệm.NẾU CÓ ĐIỀU KIỆN HÃY MUA SÁCH ỦNG HỘ NHÀ XUẤT BẢN 
© Tuthienbao.com- TTB chúng tôi không cung cấp chức năng đăng ký thành viên để viết bài hay bình luận - Nếu có khiếu nại chung tôi sẽ xử lý.Mọi dữ liệu về diễn đàn trên website này đều được chúng tôi và các thành viên tham gia website tổng hợp từ  tất cả các trang website .Do đó, chúng tôi không chịu trách nhiệm về những dữ liệu được chia sẻ tại đây.Truyện Nội Dung được chia sẻ chỉ với mục đích giải trí, phi lợi nhuận. Mọi bản quyền thuộc về tác giả và nhà xuất bản gốc.Nếu có yêu cầu gỡ bỏ, xin liên hệ qua email
  
truyen tranh,
truyen tranh 8,truyen tranh hay,
truyen tranh online,
ebook,ebook ngon tinh,
van hoc lop 5,van hoc lop 6,van hoc lop 7,van hoc lop 8,van hoc lop 9,van hoc lop 10,van hoc lop 11,van hoc lop 12,
 
     | 
  
 
 
Powered by: vBulletin v3.8.2
 Copyright ©2000-2025, Jelsoft Enterprises Ltd.
 
	
	
		
	
	
 
      |