Thanh Hải tên thật là Phạm Bá Ngoãn. Anh sinh ngày 4 tháng 11 năm 1930,  quê ở xã Phong Bình, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Nhà thơ mất  ngày 15 tháng 12 năm 1980, tại thành phố Huế. 
 
Những năm kháng chiến chống Pháp, Thanh Hải công tác ở đoàn văn công.  Những năm chống Mỹ, anh tiếp tục làm công tác văn hoá - tuyên huấn ở  chiến khu Trị Thiên. Sau 1975, Thanh Hải từng làm Tổng thư ký Hội Văn  nghệ Bình Trị Thiên, Uỷ viên Thường vụ Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật  Việt Nam. Anh đã xuất bản các tập thơ: Những đồng chí trung kiên (1962);  Huế mùa xuân (tập 1 năm 1970, tập 2 năm 1975); Dấu võng Trường Sơn  (1977); Mùa xuân đất này (1982); Thanh Hải thơ tuyển (1982). Anh được  Hội Văn nghệ Giải phóng trao Giải thưởng Văn học Nguyễn Đình Chiểu năm  1965 và được Chính phủ truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ  thuật, đợt 1, năm 2001.
 
 
 Nhà thơ Thanh HảiTừ  những năm 1960 đến 1965 hầu như những người yêu thơ ở miền Bắc ai cũng  biết và thuộc lòng một số bài thơ “vượt tuyến” của nhà thơ Thanh Hải.  Cùng với Giang , Thanh Hải là một hiện tượng thơ rất được chú ý lúc bấy  giờ. Nếu Giang nổi tiếng với bài thơ Quê hương thì Thanh Hải được mọi  người biết đến với bài 
Mồ anh hoa nở. Trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Thanh Hải vẫn một lòng kiên trung với cách mạng, chung thuỷ với thơ ca.
 
Thơ Thanh Hải chân chất, bình dị, đôn hậu như con người của anh. Hầu hết  thơ anh là thơ “trữ tình công dân”. Thanh Hải tiếp nối mạch nguồn thơ  ca cách mạng của Hồ Chí Minh, Sóng Hồng, Tố Hữu… Sau hiệp nghị Giơ ne  vơ, anh được giao nhiệm vụ ở lại miền Nam, sát cánh với nhân dân Trị  Thiên Huế gây dựng phong trào, tổ chức đấu tranh đòi thống nhất đất  nước. Nhà thơ đã tận mắt chứng kiến những cuộc đàn áp vô cùng dã man của  chính quyền Ngô Đình Diệm đối với những người bị chúng tình nghi là  “Cộng sản”: 
Hôm qua chúng giết anh/ Xác phơi đầu ngõ xóm. Bọn  chúng “trừng mắt” ra lệnh: Thằng này là Cộng sản/ Không được đứa nào  chôn! Nhưng bất chấp lời đe doạ của chúng, nhân dân vẫn chôn cất những  chiến sĩ Cộng sản hết sức chu đáo: Lũ
 chúng vừa quay lưng/ Chiếc quan  tài sơn son/ Đã đưa anh về mộ/ Đi theo sau hồn anh/ Cả làng quê, đường  phố/ Cả lớn nhỏ gái trai/ Đám càng đi càng dài/ Càng dài càng đông mãi… Đó là những câu thơ trong bài M
ồ anh hoa nở  mà tôi đã học thuộc lòng khi còn là một cậu học trò lớp sáu trường  làng. Những câu thơ dung dị ấy cứ đi thẳng vào lòng người, chẳng cần hoa  hoè, hoa sói. Trải qua mưa nắng thời gian những bông hồng trên mộ người  Cộng sản vẫn toả hương ngào ngạt. Bởi đó là những bông hồng nở từ máu  của các chiến sĩ cách mạng đã hy sinh vì sự nghiệp thống nhất đất nước.  Hình ảnh: 
Bông hồng đỏ và đỏ/ Như máu nở thành hoa là một hình ảnh hết sức ấn tượng, hết sức ý nghĩa mà không phải bất cứ nhà thơ nào cũng có thể viết được.
 
Cũng vào thời còn ngồi trên ghế nhà trường, tôi đã thuộc lòng những câu thơ viết về Bác của Thanh Hải: 
Đêm nay bên bến Ô Lâu/ Cháu ngồi cháu nhớ chòm râu Bác Hồ… 
Càng nhìn càng lại ngẩn ngơ/ Ôm hôn ảnh Bác mà ngờ Bác hôn.  Những câu thơ này đã đi vào tâm thức của nhiều thế hệ người Việt . Nó  tồn tại như những câu ca dao lưu truyền trong dân gian. Nhà thơ Thanh  Hải kể rằng khi anh đọc bài thơ Cháu nhớ Bác Ho cho Bác nghe, đến câu Ôm  hôn ảnh Bác mà ngờ Bác hôn, quá xúc động, anh dừng lại giữa chừng. Bác  bèn ôm lấy anh, vừa hôn vừa nói: “Đây, hôm nay Bác hôn thật đây!”. Đó là  một kỷ niệm không bao giờ quên trong cuộc đời làm thơ của anh. Vào ngày  19/10/1962, đoàn đại biểu của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam do  Giáo sư Nguyễn Văn Hiếu dẫn đầu ra thăm miền Bắc đặt chân đến Hữu Nghị  quan. Trong đoàn có cả nhà thơ Thanh Hải. Anh phải lặn lội từ Trị Thiên  vào tận Tây Ninh, qua Căm pu chia, bay sang Trung Quốc rồi đi tàu về  biên giới Lạng Sơn. Nhà thơ nghẹn ngào: 
Cách nhau chỉ một mái chèo/ Mà đi trăm núi, vạn đèo đến đây!  Khi nghe nghệ sĩ Trần Thị Tuyết ngâm bài Tám năm nay mới gặp nhau của  anh trong chương trình Tiếng thơ, Đài Tiếng nói Việt , rất nhiều người  đã không cầm được nước mắt. Bao nhiêu vui sướng, bao nhiêu hờn tủi, bao  nhiêu căm giận... chất chứa trong hai câu thơ giản dị này. Thời đó, Trị  Thiên và Quảng Bình đều là những tỉnh ở “tuyến đầu Tổ quốc” nên tình cảm  hết sức keo sơn, gắn bó. Thanh Hải đã thay mặt đồng bào Trị Thiên bày  tỏ tình cảm sâu nặng ấy với nhân dân Quảng Bình qua những vần thơ rất  đỗi chân thành: 
Quảng Bình ơi, chín năm xưa đánh giặc/ Vui khổ cùng  chung mảnh đất miền Trung/ Xa cách mười năm, mười năm thầm nhắc/ Lòng  hẹn lòng qua đôi bến Hiền Lương… 
 
Thanh Hải có bài thơ Sang đò đêm mưa khá cảm động viết về mối quan hệ  tình cảm sâu nặng giữa đồng bào miền với các chiến sĩ cách mạng nằm vùng  (thời 1954 - 1965). Người lái đò cho các chiến sĩ bí mật qua sông ngay  cạnh đồn bốt của địch là một mẹ già. Hôm ấy trời mưa rất to. Tác giả băn  khoăn không hiểu sao mẹ cứ cho đò trôi “lơ lửng, lửng lơ” trên sông làm  “ướt cả thân già” mà không cập bến. 
Má rằng: con ở trong mui/ Cứ ngồi cho ấm để rồi lại đi/ Má ướt một bữa can chi/ Chỉ lo con ướt lấy gì mà hơ.  Người chiến sĩ thì thương trời mưa làm “ướt cả thân má”. Mẹ thì lo để  các anh lên bờ trong khi trời đang mưa “lấy gì mà hơ”. Bởi: Bên kia  những bụi cùng bờ/ Không tơi, không nón đụt nhờ vào đâu? Phải máu mủ  ruột thịt mới quan tâm, lo lắng đến nhau như thế. Chỉ một từ “đụt” cũng  đủ cho người đọc biết quê hương, bản quán của mẹ. “Đụt” là từ địa phương  có nghĩa là trú ẩn. Lời thơ bình dị như lời ăn tiếng nói hàng ngày.  Phải chờ đến khi trời tạnh mưa, mẹ mới đưa đò vào bến. Khi buộc con đò,  “vì dầm mưa lạnh má ho từng hồi”. Tiếng ho của mẹ làm tác giả tràn đầy  thương cảm: 
Má ơi! Đi đã xa rồi/ Mà con vẫn mãi nhìn lui bến đò/ Vẫn còn vọng mãi tiếng ho/ Mỗi khi vượt bốt sang đò đêm mưa… 
 
Tôi tin là những lời thơ bình dị này của Thanh Hải “vẫn còn vọng mãi” cùng năm tháng. 
 
Khoảng thời gian từ 1965 đến 1975 Thanh Hải hoà lẫn vào trong dòng thơ  chung, hoà lẫn vào bản anh hùng ca chống Mỹ cứu nước vô cùng sôi nổi, vô  cùng hào hứng. Bên cạnh thế hệ làm thơ trước cách mạng như Tố Hữu, Chế  Lan Viên, Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư… thế hệ trẻ đầy tài hoa như  Thu Bồn, Nguyễn Khoa Điềm, Lê Anh Xuân, Phạm Ngọc Cảnh, Phạm Tiến Duật,  Xuân Quỳnh, Nguyễn Đức Mậu, Hoàng Nhuận Cầm, Ý Nhi, Lâm Thị Mỹ Dạ,  Nguyễn Duy… Thanh Hải vẫn “lặng lẽ” làm “một nốt trầm” góp vào bản “hoà  ca” bằng tập thơ: Huế mùa xuân. Sau 1975, anh vẫn trăn trở với đề tài  chiến tranh. Tập thơ Dấu võng Trường Sơn (1977) ghi lại cảm xúc của anh  về những năm tháng “không thể nào quên” ấy. Từ 1978, thơ anh bắt đầu  chuyển sang những tâm sự đời thường. Tôi nhớ mãi buổi nói chuyện của anh  với các em học sinh chuyên văn Hai Bà Trưng Huế. Cuối buổi nói chuyện,  anh đọc cho thầy trò chúng tôi nghe những bài thơ mới viết của anh.  Giọng anh nhỏ nhẹ, trầm lắng. Anh sẻ chia với cuộc sống còn nhiều khó  khăn, vất vả của những người lính vừa đi qua chiến tranh, của những  người dân lao động: 
Mùa đông còn se lạnh/ Áo chưa đủ hai mùa/ Cơm mỳ với canh chua/ Sốt rét rừng chưa dứt… (Xa em giữa mùa mưa lũ); 
Lúc hạn hán, lúc mưa rào/ Lúc úng, lúc bão, lúc đào mương phai… (Ngủ đêm ở hợp tác xã). Tiếc là vào đúng thời điểm này anh lại bị căn bệnh ung thư cổ trướng hành hạ. 
 
Mặc dù thế, trước khi mất, Thanh Hải vẫn kịp để lại cho đời bài thơ Mùa  xuân nho nhỏ viết vào những ngày cuối cùng trên giường bệnh. Thông qua  Mùa xuân nho nhỏ tác giả bày tỏ khát vọng dâng hiến tài năng và sức lực  của mình cho công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước. Bài thơ đã được nhạc  sĩ Trần Hoàn phổ nhạc, trở thành một trong những ca khúc quen thuộc,  thân thiết cứ mỗi độ xuân về. Màu sắc trong bức tranh xuân của Thanh Hải  hết sức dịu dàng. Màu xanh của dòng sông làm nền cho màu tím của bông  hoa. Màu tím vốn là màu đặc trưng của Huế. Chọn bông hoa tím để tả mùa  xuân, phải chăng nhà thơ muốn ca ngợi vẻ đẹp riêng của quê hương mình,  xứ sở mình? Mùa xuân không chỉ được thể hiện qua màu sắc mà còn được thể  hiện qua âm thanh: Ơi, con chim chiền chiện/ Hót chi mà vang trời? Nhà  thơ hỏi chim chiền chiện hay đang hỏi chính cõi lòng rạo rực của mình?  Tiếng chim hóa thành “những giọt long lanh” chẳng khác gì những viên  ngọc. Nhà thơ hứng tiếng chim với tất cả niềm sung sướng hạnh phúc. Đó  là niềm vui trước mùa xuân mới, cuộc sống mới. 
 
Thanh Hải miêu tả không khí khẩn trương, sôi nổi, hồ hởi của đất nước vào xuân: 
Tất cả như hối hả/ Tất cả như xôn xao… “Lộc giắt đầy quanh lưng”, và “
lộc trải dài nương mạ”  càng làm tăng thêm sức sống mãnh liệt của mùa xuân, của đất nước. Nhịp  thơ nhanh, gấp gáp đã thể hiện phần nào không khí khẩn trương, sôi nổi  ấy. Đang háo hức, sôi nổi… tác giả đột ngột hạ giọng: 
Một mùa xuân nho nhỏ/ Lặng lẽ dâng cho đời/ Dù là tuổi hai mươi/ Dù là khi tóc bạc… Trong  mùa xuân chung, Thanh Hải chỉ xin làm “một mùa xuân nho nhỏ”. Nhưng  chính “mùa xuân nho nhỏ” đã góp phần làm nên mùa xuân đất nước. “Mùa  xuân nho nhỏ” là những bông hoa, những con ong lặng lẽ dâng cho cuộc đời  hương sắc của mình, mật ngọt của mình. Một sự hiến dâng “lặng lẽ”,  không phô trương. Đức tính ấy là đức tính quý báu của con người Việt  “biết hi sinh nên chẳng nhiều lời”, là đức tính của những người mẹ “nhẫn  nại nuôi con suốt đời im lặng”. Từ mùa xuân quê hương tác giả liên  tưởng đến mùa xuân đất nước, từ mùa xuân mọi người tác giả nghĩ đến “mùa  xuân nho nhỏ” của mình. Bài thơ kết thúc trong niềm vui hòa nhập: quê  hương, đất nước, riêng - chung: M
ùa xuân - ta xin hát/ Câu ai, bình/ Nước non ngàn dặm mình/ Nước non ngàn dặm tình/ Nhịp phách tiền đất Huế”.  Mùa xuân nho nhỏ không chỉ là một trong những bài thơ hay của Thanh  Hải, mà còn là một trong những bài thơ hay viết về mùa xuân của thơ ca  đương đại.
 
Trong bản “hoà ca” chung của thơ Việt , Thanh Hải tự nhận mình chỉ là  một “nốt trầm”. Nhưng cái “nốt trầm” ấy đã làm “xao xuyến” bao nhiêu  trái tim bạn đọc. Nhà thơ đã hiến dâng tất cả cuộc đời mình cho nhân  dân, cho cách mạng, cho đất nước. Nhớ về anh là tôi nhớ về một con người  có nụ cười hiền lành, có đức kiên trung, lòng lạc quan, yêu đời, yêu  cuộc sống. Nhà thơ ra đi mới đó mà đã gần ba mươi năm. Trên lăng mộ  khiêm nhường của anh ở nghĩa trang Phan Bội Châu, thành phố Huế, ngày  ngày:
 
 
Hoa hồng nở và nở
Hương thơm bay và bay… 
 
Theo Mai Văn Hoan
Nguồn: TC Sông Hương