Đề 42: Phân tích tác phẩm Vợ Chồng A Phủ của Tô Hoài. 
Bài làm 
              Mị là nhân vật trung tâm trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” mà nhà văn Tô Hoài đã 
giành nhiều tài năng và tâm huyết để xây dựng. Truyện được trích từ tập “truyện Tây Bắc” (1953) 
của Tô Hoài. Trong chuyến đi cùng bộ đội vào giải phóng miền Tây Bắc (1952), Tô Hoài đã có 
dịp sống, cùng ăn, cùng ở với đồng bào các dân tộc miền núi, chính điều đó đã giúp Tô Hoài tìm 
được cảm hứng để viết  truyện này.  Tô  Hoài thành  công trong  “Vợ  chồng  A Phủ”  không  chỉ  do 
vốn sống,  tình cảm sống của  mình  mà  còn  là  do  tài năng  nghệ  thuật  cùa một  cây  bút  tài  hoa. 
Trong “Vợ chồng A  Phủ”,  Tô  Hoài đã sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật, trong đó nổi bật và 
đáng chú ý nhất là biện pháp phân tích tâm lý và hành động của Mị trong từng chặng đường đời. 
Điểm nghệ thuật ấy thật sự phát sáng và thăng hoa trong đoạn văn miêu tả tâm  lý và hành động 
của nhân vật Mị trong đêm mùa đông cứu A Phủ. Qua đó ta thấy được giá trị hiện thực và nhân 
đạo của tác phẩm. 
            Trong tác phẩm này, điều gây cho bạn đọc ấn tượng nhất đó chính là hình ảnh của cô gái 
“dù làm bất cứ việc gì, cô ta cũng cúi mặt, mắt buồn rười rượi”. Đó là tâm lý của một con người 
cam chịu, buông xuôi trước số phận, hoàn cảnh sống đen tối đầy bi kịch. Sở dĩ Mị có nét tính cách 
ấy là do cuộc sống hôn nhân cưỡng bức giữa Mị và A Sử. Mị không được lấy người mình yêu mà 
phải ăn đời ở kiếp với một người mà mình sợ hãi, lạnh lùng. Một nguyên nhân nữa chính là do uy 
quyền, thần quyền, đồng tiền của nhà thống lý Pá Tra đã biến Mị thành một đứa con dâu gạt nợ. 
Mang  tiếng  là con  dâu của một  người  giàu  có nhất  vùng,  nhưng  thật sự Mị chỉ  là một kẻ nô lệ 
không hơn  không  kém.  Điều đó  làm Mị  đau khổ, Mị  khóc  ròng  rã mấy  tháng  trời  và từng  có  ý 
định  ăn nắm  lá  ngón kết  thúc  cuộc  đời  mình.  Thế  nhưng  “sống  lâu  trong  cái  khổ, Mị  quen  khổ 
rồi”. Chính vì thế Mị đã buông xuôi trước số phận đen tối của mình, trái tim của Mị dần chai sạn 
và mất đi nhịp đập tự nhiên của nó. 
            Song  song với  nét  tính  cách  đó lại  là  tâm  trạng của một  người  yêu  đời,  yêu  cuộc sống, 
mong muốn thoát khỏi hoàn cảnh sống đen tối, đầy bi kịch. Điều đó đã được thể hiện trong đêm 
mùa xuân. 
            Trong đêm mùa xuân ấy, tâm trạng của Mị phát triển theo những cung bậc tình cảm khác 
nhau,  cung bậc  sau  cao hơn  cung bậc  trước.  Ban  đầu, Mị  nghe  tiếng  sáo  Mèo  quen  thuộc, Mị 
nhẩm thầm bài hát người đang thổi, rồi Mị uống rượu và nhớ lại kỷ niệm đẹp thời xa xưa… Mị ý 
thức được về bản thân và về cuộc đời rồi Mị muốn đi chơi. Nhưng sợi dây thô bạo của A Sử đã 
trói  đứng Mị  vào cột.  Thế  nhưng sợi  dây  ấy  chỉ  có  thể  “trói”  được  thân  xác Mị  chứ  không  thể 
“trói” được  tâm hồn của một cô  gái đang hòa nhập với  mùa xuân, với cuộc đời.  Đêm  ấy  thật là 
một đêm có ý nghĩa với Mị.  Đó  là  đêm  cô thực sự sống  cho riêng  mình sau hàng ngàn đêm  cô 
sống vật vờ như một cái xác không hồn. Đó là một đêm cô vượt lên uy quyền và bạo lực đế sống 
theo tiếng gọi trái tim mình. 
           Sau đêm mùa xuân ấy, Mị lại tiếp tục sống kiếp đời trâu ngựa. Thế nhưng viết về vấn đề 
này, Tô Hoài khẳng định: cái khổ cái nhục mà Mị gánh chịu như lớp tro tàn phủ khuất che lấp sức 
sống tiềm tàng trong lòng Mị. Và chỉ cần có một luồng gió mạnh đủ sức thổi đi lớp tro buồn nguội 
lạnh ấy thì đốm lửa ấy sẽ bùng cháy và giúp Mị vượt qua cuộc sống đen tối của mình. Giá trị nhân 
đạo của tác phẩm ngời lên ở chỗ đó. 
           Và cuối cùng, luồng gió ấy cũng đến. Đó chính là những đêm mùa đông dài và buồn trên 
núi rừng Tây Bắc đang về. Mùa đông rét buốt như cắt da cắt thịt, vì thế đêm nào Mị cũng ra bên 
ngoài bếp lửa để thổi lửa hơ tay. Trong những đêm đó Mị gặp A Phủ đang bị trói đứng chờ chết 
giữa trời giá rét. Thế nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay “Dù A Phủ là cái xác chết đứng đó 
cũng  thế thôi”. Tại sao Mị lại  lãnh cảm,  thờ ơ trước sự  việc ấy? Phải chăng việc trói người đến 
chết là một việc làm bình thường ở nhà thống lý Pá Tra và ai cũng quen với điều đó nên chẳng ai 
quan  tâm  đến.  Hay bởi Mị  “sống  lâu  trong  cái  khổ, Mị  quen  khổ rồi”  nên Mị  lãnh  đạm,  thờ  ơ 
trước nỗi đau khổ của người khác. Một đêm nữa lại đến, lúc đó mọi người trong nhà đã ngủ yên 
cả rồi, Mị lại thức dậy đến bếp đốt lửa lên để hơ tay. Lửa cháy sáng, “Mị lé mắt trông sang, thấy 
hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. 
Đó  là  dòng nước mắt của một kẻ  nô lệ  khi  phải  đối mặt với  cái chết đến rất gần.  Chính  “dòng 
nước mắt lấp  lánh  ấy” đã  làm  tan chảy lớp băng  giá lạnh  trong  lòng Mị.  Lòng Mị chợt bồi hồi 
trước một  người,  trùng cảnh  ngộ.  Đêm  mùa  xuân  trước Mị cũng bị  A Sử  trói  đứng  thế  kia,  có 
nhiều lần khóc nước mắt rơi xuống miệng, xuống cổ không lau đi được. Mị chợt nhận ra người ấy 
giống mình về cảnh ngộ, mà những người cùng cảnh ngộ rất dễ cảm thông cho nhau. Mị nhớ lại 
những chuyện thật khủng khiếp lúc trước kia, “chúng nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước 
cũng  ở trong cái  nhà này”.  Lý  trí  giúp Mị  nhận ra  “Chúng  nó  thật độc ác”.  Việc trói người đến 
chết còn ác hơn cả thú dữ trong rừng. Chỉ vì bị hổ ăn mất một con bò mà một người thanh niên 
khỏe mạnh, siêng năng, say sưa với cuộc đời đã phải lấy mạng mình thay cho nó. Bọn thống trị 
coi sinh mạng của A Phủ không bằng một con vật. Và dẫu ai phạm tội như A Phủ cũng bị xử phạt 
như thế mà thôi. Nhớ đến những chuyện ngày trước, trở về với hiện tại, Mị đau khổ cay đắng cho 
thân phận của mình: “Ta là thân đàn bà chúng nó đẵ bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết 
chờ ngày rũ xương ở đây thôi”. Nghĩ về mình, Mị lại nghĩ đến A Phủ “có chừng này, chỉ đêm nay 
thôi là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Người kia việc gì mà phải chết như 
thế. A Phủ…. Mị phảng phất nghĩ như vậy”. Thật sự, chẳng có lí do gì mà bọn thống lí Pá Tra bắt 
A Phủ phải chết vì cái tội để mất một con bò! Trong đầu Mị bỗng nhiên nghĩ đến cảnh A Phủ bỏ 
trốn và chính Mị sẽ là người chết thay cho A Phủ trên cái cột tưởng tượng đó. Thế nhưng, Mị vẫn 
không  thấy sợ, sự suy tưởng của Mị  là có cơ sở của nó. Cha con Pá Tra đã biến Mị từ một con 
người yêu  đời,  yêu cuộc sống, tài hoa chăm chỉ,  hiếu  thảo,  tha thiết với  tình yêu thành một con 
dâu gạt nợ, một kẻ nô lệ đúng nghĩa,  chúng đã  tàn ác  khi trói một người đàn bà ngày  trước đến 
chết thì chẳng lẽ chúng lại không đối xử với Mị như thế ư? Như vậy, chứng kiến “dòng nước mắt 
lấp  lánh” của  A  Phủ,  tâm  trạng của Mị  diễn biến phức tạp. Mị  thông cảm với  người cùng cảnh 
ngộ, Mị nhớ đến chuyện người đàn bà ngày trước, lí trí giúp Mị nhận ra bọn lãnh chúa phong kiến 
thật độc  ác, Mị  xót xa  trước số  phận của  mình rồi Mị lại nghĩ  đến  A  Phủ;  sau đó Mị lại tưởng 
tượng đến  cái cảnh mình bị trói đứng… Một loạt nét  tâm lí ấy thúc đẩy Mị  đến với hành động: 
dùng dao cắt lúa rút dây mây cởi trói cho A Phủ. Đó là một việc làm táo bạo và hết sức nguy hiểm 
nhưng nó phù hợp với nét tâm lí của Mị trong đêm mùa đông này. 
            Sau khi cắt dây cởi trói cho A Phủ, Mị cũng không ngờ mình dám làm một chuyện động 
trời đến vậy. Mị  thì  thào  lên một tiếng “đi ngay” rồi Mị nghẹn lại. A  Phủ  vùng chạy đi, còn Mị 
vẫn đứng lặng trong bóng tối. Ta có thể hình dung được nét tâm lí ngổn ngang trăm mối của Mị 
lúc này. Lòng Mị rối bời với trăm câu hỏi: Vụt chạy theo A Phủ hay ở đây chờ chết?. Thế là cuối 
cùng sức sống tiềm tàng đã thôi thúc Mị phải sống và Mị vụt chạy theo A Phủ. Trời tối lắm nhưng 
Mị vẫn băng  đi. Bước chân của Mị như đạp đổ uy quyền,  thần  quyền của bọn  lãnh  chúa phong 
kiến đương thời đã đè nặng tâm hồn Mị suốt bao nhiêu năm qua. Mị đuổi kịp A Phủ và nói lời đầu 
tiên. Mị nói với A Phủ sau bao nhiêu năm câm nín: “A Phủ. Cho tôi đi! Ở đây thì chết mất”. Đó là 
lời  nói  khao khát sống và khát khao tự do của nhân vật Mị. Câu nói ấy chứa  đựng biết bao tình 
cảm và làm quặn đau trái tim bạn đọc. Đó chính là nguyên nhân - hệ quả của việc Mị cắt đứt sợi 
dây vô hình ràng buộc cuộc đời của mình. Thế là Mị và A Phủ dìu nhau chạy xuống dốc núi. Hai 
người đã rời bỏ Hồng Ngài - một nơi mà những kỉ niệm đẹp đối với họ quá ít, còn nỗi buồn đau, 
tủi nhục thì chồng chất không sao kể xiết. Hai người rời bỏ Hồng Ngài và đến Phiềng Sa, nhưng 
những ngày phía trước ra sao họ cũng chưa biết đến… 
             Rõ  ràng,  trong  đêm  mùa  đông  này, sức sống  tiềm  tàng  đóng một  vai  trò hết sức  quan 
trọng.  Chính  nó  đã  giúp Mị vượt  lên  trên số  phận  đen tối của  mình. Mị cứu  A  Phủ cũng  đồng 
nghĩa với việc Mị tự cứu lấy bản thân mình. Qua đoạn trích trên, Tô Hoài đã ca ngợi những phẩm 
chất đẹp đẽ của người phụ nữ miền núi nói riêng và những người phụ nự Việt Nam nói chung. Tô 
Hoài  đã rất cảm  thông  và xót  thương cho số  phận hẩm  hiu,  không lối  thoát của Mị.  Thế  nhưng 
bằng một trái tim nhạy cảm và chan chứa yêu thương, Tô Hoài đã phát hiện và ngợi ca đốm lửa 
còn sót lại  trong  trái  tim Mị. Tư tưởng nhân  đạo của  nhà văn  sáng  lên  ở đó.  Đồng  thời  qua  tác 
phẩm, Tô Hoài cũng đã khẳng định được chân lí muôn đời: ở đâu có áp bức bất công thì ở đó có 
sự đấu tranh để chống lại nó dù đó là sự vùng lên một cách tự phát như Mị. Quả thật, tác phẩm 
này giúp ta hiểu được nhiều điều trong cuộc sống. 
             Với truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” nói riêng và tập “Truyện Tây Bắc” nói chung, ta hiểu 
vì sao Tô Hoài lại thành công trong thể loại truyện ngắn đến như vậy. Nét phong cách nghệ thuật: 
màu sắc dân tộc đậm đà chất thơ chất trữ tình thấm đượm, ngôn ngữ lời văn giàu tính tạo hình đã 
hội tụ và phát sáng trong truyện ngắn này. Tác phẩm “Truyện Tây Bắc” xứng đáng với giải nhất 
truyện ngắn - giải thưởng do Hội nghệ sĩ Việt Nam trao tặng năm 1954 - 1955. Và “Vợ chồng A 
Phủ” thực sự để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng bạn đọc bởi những giá trị nghệ thuật, giá trị hiện 
thực và giá trị nhân đạo của nó. Truyện ngắn này quả là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách 
Tô Hoài. 
             Đối với riêng em, truyện “Vợ chồng A Phủ” giúp em cảm thông sâu sắc trước nỗi khổ của 
người phụ nữ trong xã hội phong kiến miền núi, từ đó giúp em ngày càng trân trọng khát vọng của 
họ hơn. Đây quả là một tác phẩm văn chương đích thực bởi nó đã góp phần nhân đạo hóa tâm hồn 
bạn đọc như Nam Cao đã quan niệm trong truyện ngắn “Đời thừa”.
Bài khác
