Tìm kiếm chủ đề bài viết ở đây trước khi hỏi TTB -Tìm bằng tiếng việt có dấu càng chính xác-Ví Dụ:Đánh vào Hwang mi ri để tìm truyện tác giả này
 
Hãy ủng hộ mua bất kỳ sản phẩm trên shopee.vn truy cập Vào Đây tìm sản phẩm rồi mua, mỗi lượt mua đều giúp duy trì website hoạt động miễn phí
KHÔNG XEM ĐƯỢC ẢNH TRUY CẬP ĐỔI DNS CLICK VÀO ĐÂY 
 
   	  	 
 
 
		 
	 
 
  
	
	
		
	
	
	| 
		
		 
			
				31-10-2012, 07:32 PM
			
			
			
		 
	 | 
 
	
		
        
        
		
		        
 
                                |   	
                              
				
 				 Đầy Tớ Của Nhân Dân 
	
                 
 Facebook: https://www.facebook.com/tuthienbaocom 
		
 | 	
	
			
			 | 
	
			
	
                              
					  
					
					
					
				
			 | 
		  |  
		 
		
	 | 
 
	
	
		
	
		
		
			
			
				 
				Tóm tắt và phân tích Thuốc -Lỗ Tấn
			 
			 
			
		
		
 
 
 
 
 
 
Xuất  xứ 
       Truyện ngắn  “Thuốc” của Lỗ Tấn đăng lần đầu tiên trên  tạp chí Tân Thanh niên. Nhân vật Hạ Du  trong truyện, ám chỉ nữ thi sĩ Thu Cận (Du  và Cận đều cùng nghĩa là  Ngọc). Chỗ Thu Cận bị hành hình gần nhà  bia Cổ Hiên Đình Khấu, tại nội thành Thiệu Hưng, quê hương Lỗ Tấn. Cuối phần I  truyện “Thuốc”, tác giả nhắc tại tên cái  nhà bia ấy, nhưng đã cắt đi một chữ: “Cổ… Đình Khấu”.
     Lịch sử hiện đại  Trung Quốc được mở đầu bằng phong trào Ngũ Tứ, nổ ra vào ngày 4/5/1919 mang tính chất phản  đế và phản phong triệt để. Truyện “Thuốc”  ra đời vào thang 5/1919, giữa cơn xoáy lịch sử của phong trào Ngũ Tứ, nên nó  mang một hàm nghĩa sâu sắc.
 
Xuất  xứ 
       Truyện ngắn  “Thuốc” của Lỗ Tấn đăng lần đầu tiên trên  tạp chí Tân Thanh niên. Nhân vật Hạ Du  trong truyện, ám chỉ nữ thi sĩ Thu Cận (Du  và Cận đều cùng nghĩa là  Ngọc). Chỗ Thu Cận bị hành hình gần nhà  bia Cổ Hiên Đình Khấu, tại nội thành Thiệu Hưng, quê hương Lỗ Tấn. Cuối phần I  truyện “Thuốc”, tác giả nhắc tại tên cái  nhà bia ấy, nhưng đã cắt đi một chữ: “Cổ… Đình Khấu”.
     Lịch sử hiện đại  Trung Quốc được mở đầu bằng phong trào Ngũ Tứ, nổ ra vào ngày 4/5/1919 mang tính chất phản  đế và phản phong triệt để. Truyện “Thuốc”  ra đời vào thang 5/1919, giữa cơn xoáy lịch sử của phong trào Ngũ Tứ, nên nó  mang một hàm nghĩa sâu sắc.
 
Chủ  đề
       Truyện “Thuốc” thể hiện tình  trạng u mê, tê liệt của quần chúng và bi  kịch của người cách mạng tiên phong trong xã hội Trung Quốc đầu thế  kỷ 20.
 
Phân  tích truyện ngắn “Thuốc” của Lỗ Tấn 
       Văn  hào Lỗ Tấn (1881 - 1936) được  ngợi ca là vị chủ tướng trên mặt trận văn hóa - tư tưởng, đạt được thành tựu lớn  nhất trong nền văn học hiện đại Trung Quốc. Ông đã sống và viết với một tâm thế  chiến đấu ngoan cường, bất khuất, coi khinh mọi kẻ thù của nhân dân. Hai vần thơ  nổi tiếng của ông được truyền tụng như một châm ngôn sáng ngời:
             “Quắc  mắt coi khinh nghìn lực sĩ,
             Cúi đầu  làm ngựa chú nhi đồng”.
     Nhà văn Fađêép  (Nga) từng ca ngợi: “Lỗ Tấn là một danh thủ truyện ngắn thế giới… Ông đã cống  hiến cho nhân loại những hình thức dân tộc không thể bắt chước  được…”.
      “Thuốc” là một truyện ngắn  đa nghĩa như nhiều truyện ngắn khác của Lỗ Tấn. Ông sáng tác truyện “Thuốc” vào  ngày 25/4/1919, đúng một năm sau  “Nhật ký người điên” ra đời. Nó được đăng trên báo “Tân Thanh niên” số thang  5/1919 giữa cơn bão táp phong trào Ngũ Tứ (4/5/1919) do học sinh, sinh viên Bắc  Kinh phát động, mở đầu cuộc vận động “cứu vong” - cứu đất nước Trung Hoa khỏi  diệt vong.
     Lỗ Tấn kể chuyện  vợ chồng lão Hoa Thuyên mua bánh bao tẩm máu tử tù để làm thuốc chữa bệnh lao  cho con, chuyện Hạ Du làm cách mạng mà bị chêt chém… qua đó tác giả thể hiện  tình trạng u mê, tê liệt của quần chúng và bi kịch  của người cách mạng tiên phong trong xã hội Trung Quốc những năm đầu của thế kỷ  20.
     Lỗ Tấn chia  truyện làm bốn phần: 1) Lão Hoa Thuyên đi mua thuốc - bánh bao tẩm máu tử tù -  đem về chữa bệnh lao cho con; 2) Vợ chồng lão Hoa nướng “thuốc” và thằng Thuyên  - con trai ăn “thuốc”; 3) Bọn khách trong quán trà và bác Cả Khang (đao phủ) nói  về “thuốc” và bàn về tử tù; 4) Bà Hoa và bà Tứ (mẹ tử tù) cùng đi thăm mộ con và  gặp nhau trong nghĩa địa nhân ngày thanh minh.
      1. Lão Hoa Thuyên đi  mua “Thuốc” cho con vào một đêm mùa thu gần sáng, trăng lặn rồi. Mùa thu cũng là  mùa ở Trung Quốc dưới thời Mãn Thanh, người ta đem chém tử tù. Trời tối và lạnh,  vắng vẻ. Tiếng ho của người bệnh lao (thằng con trai) nổi lên. Bà Hoa sờ soạng  dưới gối lấy một gói bạc đồng đưa cho chồng. Lão Hoa Thuyên cầm đèn lồng đi ra,  thằng con lại nổi một cơn ho. Lão Thuyên khẽ nói với con, biết bao thương yêu:  “Thuyên à! Con cứ nằm đấy!...”
     Trời tối và  vắng, lạnh, nhưng lão Hoa Thuyên “cảm thấy sảng  khoái, như bỗng dưng mình trẻ lại, và ai cho thép thần thông cải từ hoàn  sinh”. Đã mấy đời độc đinh, thằng Thuyên bị ho lao, một mối lo buồn  đè nặng đã bấy nay, vì thế đêm nay, lão cầm đèn đi mua thuốc cho con, lão chứa  chan hy vọng mới cảm thấy “sảng khoái” và  như “trẻ lại”.
     Cảnh pháp trường  qua cái “trố mắt nhìn” của lão Thuyên. Có biết bao nhiêu người “kỳ dị hết sức”,  cứ hai ba người “đi đi lại lại như những bóng ma!” Bọn lính với sắc phục có  “miếng vải tròn màu trắng” ở vạt áo trước, vạt áo sau, có “đường viền đỏ thẫm”  trên chiếc áo dấu. Cảnh pháp trường, lúc thì “tiếng chân bước ào ào”, bọn người  “xô nhào tới như nước thủy triều”, lúc thì cả đám “xô đẩy nhau ào ào”. Hình như  họ tranh nhau “lấy thuốc” để đem bán?
     Người bán thuốc  cho lão Thuyên mặc “áo quần đen ngòm” “mắt sắc như hai lưỡi dao” chọc thẳng vào  lão, làm lão “co rúm” lại. Thuốc là “một chiếc bánh bao nhuốm máu, đỏ tươi, máu  còn nhỏ từng giọt, từng giọt”. Sau khi “tiền trao cháo múc”, người bán thuộc  giật lấy gói bạc, “nắn nắn” rồi quay đi, miệng càu nhàu. Lão Thuyên “run run -  ngại không cầm chiếc bánh”, nhưng sau đó, tất cả tinh thần lão để hết vào cái  bánh bao tẩm máu ấy, “lão sẽ mang cái gói này về nhà, đem sinh mệnh lại cho con  lão, và lão sẽ sung sướng biết bao!”
     Cảnh vợ chồng  lão Hoa Thuyên gặp nhau “bàn bạc một hồi”, cảnh lấy lá sen già gói bánh bao tẩm  máu tử tù để nướng, cảnh ngọn lửa đỏ sẫm bốc lên “một mùi thơm quái lạ” tràn ngập cả quán trà rồi  cậu Năm Gù đi vào quán trà hỏi: “Thơm ghê nhỉ?... Rang cơm đấy à?”, cảnh thằng  Thuyên ăn “thuốc” hai bố mẹ đứng hai bên, và bà Hoa nói khẽ, an ủi con: “Ăn đi  con, sẽ khỏi ngay” - tất cả đều phản ánh tình trạng  mê muội của quần chúng. Họ tin tưởng một cách chắc chắn và thiêng  liêng rằng, bánh bao tẩm máu tử tù ăn vào sẽ chữa khỏi bệnh lao. Với một cách  viết dung dị, trầm lắng, sâu xa, hàng loạt chi tiết đưa ra đều xoay quanh chuyện  mua, bán thuốc, chuyện ăn thuốc và niềm tin “thuốc thành” sẽ chữa khỏi bệnh lao,  tác giả đã làm nổi bật chủ đề thứ nhất của truyện là  phê phán tư tưởng mê tín, tập quán chữa bênh phản khoa  học.
     Buổi sáng mùa  thu năm ấy, sau khi thằng Thuyên ăn “Thuốc” nằm ngủ, bà Hoa “nhẹ nhàng lấy chiếc  mền kép vá chằng chịt đắp cho con” thì quán trà một lúc một đông khách. Có cậu  Năm Gù, có một người “râu hoa râm”. Có lão “mặt thịt ngang phè… mặc chiếc áo vải  màu huyền, không ghi khuy, dải thắt lưng cũng màu huyền quần ở ngoài, xộc  xệch…”. Sắc phục ấy là dấu hiệu của những đao phủ trên pháp trường. Đó là bác Cả  Khang, kẻ đã bán “thuốc” cho lão Hoa Thuyên. Bác Cả Khang sau khi tán tụng thức  thuốc đặc biệt “bánh bao tẩm máu người như thế, lao gì mà chẳng khỏi” đã nói về  tử tù là “con nhà bà Tứ chứ còn ai? Thằng quỷ sứ!” Tử tù đã mang lại cái lợi,  món hời cho bao người! May nhất là lão Thuyên đã mua được “thuốc”, ăn vào “cam  đoan thế nào cũng khỏi”, thứ đến là cụ Ba đưa cháu ra đầu thú, vừa “tránh cho cả  nhà mất đầu”, vừa “được thưởng 25 lạng bạc trắng xoá, một mình bỏ túi tất chẳng  mất cho ai một đồng kẽm!” Lão Nghĩa đề lao “mắt đỏ như mắt cá chép” thì được cái  áo của tử tù cởi ra trước lúc lên đoạn đầu đài. Còn và Cả Khang, ngoài mấy đồng  bạc bán thuốc cho lão Thuyên “chẳng nước mẹ gì!”
     Người ta thường  nói: “Máu người không phải nước lã!” Ở  đây, máu của Hạ Du, một người cách mạng tiên phong chỉ có giá trị đem lại một ít  quyền lợi vật chất cho một số người! Chua xót và cay đắng hơn nữa, dưới mắt họ  thì Hạ Du chỉ là “thẳng quỷ sứ!, “thằng nhãi ranh con”, “thằng nhãi con”, “thằng  khốn nạn”! Với bác Cả Khang thì Hạ Du là “đáng thương hại”, với lão râu hoa râm  thì “hắn điên thật rồi!”, với cậu Năm Gù thì Hạ Du đúng là một kẻ “điên thật  rồi!”
     Hạ Du là người  cách mạng có lý tưởng chống phong kiến (triều đình Mãn Thanh), như một tín đồ tử  vì đạo, anh ta đã chiến đấu vì lý tưởng “Thiên hạ  nhà Mãn Thanh chính là của chúng ta”. Đó là khẩu hiệu của những nhà  cách mạng Trung Quốc năm 1907 hô hào quần chúng nổi dậy chống Mãn Thanh. Các nhà  nghiên cứu văn học cho biết: “Thuốc” nói chuyện  trước cách mạng Tân Hợi (1911) Hạ Du nằm trong ngục, trước lúc ra  pháp trường còn dám cả gan “vuốt râu cọp” tuyên truyền cách mạng cho lão Nghĩa  “mắt cá chép” - dám rủ lão đề lao làm giắc nên đã bị lão ta “đánh cho hai bạt  tai”. Những người như Hạ Du, Thu Cận… là những nhà cách mạng tiên phong, dũng  cảm xả thân vì đại nghĩa, sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp giải phóng đất nước.  Giữa đông đảo quần chúng u mê, họ chiến đấu một cách đơn độc. Chẳng ai hiểu họ,  ủng hộ họ. Ngay bà mẹ Hạ Du cũng chỉ biết kêu than: “Oan con lắm Du ơi!” và  nguyền rủa: “Trời còn có mắt, chúng nó giết con thì rồi trời báo hại chúng nó  thôi! Du ơi!...”. Ông chứ thì táng tận lương tâm tố cáo cháu là giặc để được  thưởng 25 lạng bạc trắng, lão Cả Khang thì lấy máu tử tù Hạ Du tẩm bánh bao để  bán “Thuốc”, lão Hoa Thuyên và bao người khác đã lấy máu Hạ Du để chữa bệnh…  Quần chúng u mê tăm tối, bị tê liệt… Người cách mạng  thì xa rời quần chúng, chiến đấu một cách đơn độc. “Thuốc” đã phê phán tình  trạng ấy, thể hiện sâu sắc bi kịch của người cách mạng tiên phong. Đó  chính là chủ đề thứ hai của truyện ngắn này. Ngầm một ý nhà văn muốn nêu ra:  Trước thực trạng cay đắng ấy phải tìm một “vị thuốc” công hiệu nào để chữa trị,  và chỉ khi nào tìm ra được vị thuốc ấy mới thay đổi được “quốc dân tình”, mới cứu được nước Trung Hoa.  Phong trào Ngũ Tứ tạo điều kiện thuận lợi cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Trung  Quốc năm 1921. Và lịch sử đã xác nhận, chỉ có Đảng Cộng sản Trung Quốc mới tìn  ra được “vị thuốc” để phục hưng đất nước.
      2. Phần cuối của truyện nói về những gì đã  diễn ra trên nghĩa địa vào tiết thanh minh. Một con đường nhỏ cong queo tạo nên  cái ranh giới tự nhiên giữa nghĩa địa. Phía tay trái con đường là mộ những người  chết chém hoặc chết tù, phía bên phải là mộ những người nghèo. Cả hai nơi môn  dày khít “như bánh bao nhà giàu ngày mừng thọ”. Trời lạnh lắm hai bà già đều ra  thăm mộ. Bà Hoa bày ra trước nấm mộ mới đắp (mộ thằng Thuyên) một bát cơm, bốn  đĩa thức ăn, ngồi khóc một hồi, đốt xong thếp vàng giấy rồi ngồi bệt xuống đất,  ngẩn ngơ. Gió hiu hiu thổi vào mớ tóc cắt ngắn đã bạc nhiều lắm… Nỗi thương con,  nỗi buồn cô đơn của bà Hoa được diễn tả qua tiếng khóc, qua dáng “ngồi bệt” và  cái “ngẩn ngơ” ấy. Không có bông lau mà chỉ có mớ tóc bạc rung lên theo làn gió  hiu hiu thổi mà đầy ám ảnh, thê lương.
      Một bà già nữa,  tóc bạc, áo quần rách rưới cũng mang bát cơm, bốn đĩa thức ăn… cứ đi ba bước lại  dừng lại, ngập ngừng không dám bước, sắc mặt xanh xao bỗng đỏ lên vì xấu hổ… Đốt  vàng lên… bỗng chân tay “run lên” lùi lại “loạng choạng” mắt “trợn trừng trừng  ngơ ngác”.
     Bà Hoa bước sang  bên kia con đường mòn - nơi mộ tử tù - khẽ nói với bà kia, an ủi: “Bà ơi thôi  mà, thương xót làm chi nữa! Ta về đi thôi!” Cử chỉ ấy, câu nói ấy trước hết là  sự đồng cảm xót thương, là sự san sẻ của hai bà mẹ già bất hạnh, một người có  đứa con ho lao ăn “thuốc” bánh bao tẩm máu tử tù mà chết, một bà mẹ có đứa con  “đi làm giặc” mà bị chém đầu! Tiết thanh minh này, hai bà mẹ già đã bước qua con  đường mòn ngăn cách giữa hai thế giới mộ - mộ người nghèo và mộ tử tù - họ đến  với nhau trong nỗi đau đớn tột cùng của lòng mẹ mất con. Phải chăng điều ấy báo  hiệu một đổi thay gì mới giữa mùa xuân này? Nỗi đau của bà Tứ (mẹ Hạ Du) đã có  người đồng cảm. Sự thức tỉnh đã hé lộ như những mầm non bằng nửa hạt gạo trên  cây dương liễu?
     Vòng hoa - hoa  trắng hoa hồng - xen lẫn nhau, nằm khoanh trên nấm mộ khum khum, với bà mẹ Hạ Du  là “Cái gì thế này?”, tại sao “Hoa không có gốc, không phải dưới đất mọc lên? Ai  đã đến đây?”… Vòng hoa đã làm cho nỗi đau của bà Tứ không thể nào kể xiết, cất  tiếng khóc thê thảm: “Du ơi! Oan con lắm Du ơi! Chắc con không quên được và con  đau lòng lắm, phải không con? Con hiển hiện lên cho mẹ biết con ơi!”… Rõ ràng  vòng hoa trên nấm mộ Hạ Du như muốn khẳng định một chân lý lịch sử và cách mạng:  Trong trạng thái mê muội, tê liệt của quần chúng thuở ấy, vẫn có người nhớ đến,  tiếc thương ngưỡng mộ và quyết tâm noi gương người cách mạng tiên phong đã ngã  xuống vì đại nghĩa. Vòng hoa thể hiện cho xu thế cách mạng, cho niềm lạc quan  đối với tiền đồ cách mạng. Vòng hoa trong truyện  “Thuốc” là một dự cảm về con đường bão táp, một tia lửa hôm nay sẽ báo hiệu một  đám cháy ngày mai!
     Câu hỏi của bà  Tứ: “Cái gì thế này?”, “thế này là thế nào?” đã tạo ra một ám ảnh khôn nguôi,  khiến người đọc “không trả lời không yên” (Nguyễn Tuân). Và tiếng quạ kêu cất  lên sau tiếng khóc, sau lời nguyền của bà Hoa, bà Tứ làm cho âm điệu chủ đạo của  thiên truyện “Thuốc” này thêm não nũng ai  oán! Phải tìm được “vị thuốc” để giảm bớt nỗi đau cho quần chúng, cho đồng loại.  Muốn “cứu vong” đất nước phải đồng thời chữa bệnh  cho “quốc dân tình” là như vậy!
      Truyện “Thuốc” chỉ có vài nhân vật. Câu chuyện thương  tâm dồn tụ lại ở hai người mẹ già, hai đứa con xấu số. Không gian hẹp: một quán trà, một pháp trường, một  bãi tha ma. Cảnh chém người một đêm thu tàn canh. Nghĩa địa “mộ dày khít, lớp  này, lớp khác, như bánh bao nhà giàu ngày mừng thọ”. Tiếng mẹ khóc con thê  thiết. Tiếng quạ kêu não nùng. Không gian nghệ thuật ấy tiêu biểu cho một nước  Trung Hoa trì trệ, bế tắc đầu thế kỷ 20.
     Thời  gian nghệ thuật trong truyện “Thuốc” vận động từ mùa thu đến mùa  xuân, từ lúc tử tù bị  chém, thằng Thuyên ho lao rồi chết đến tiết thanh minh, trên ngôi mộ Hạ Du có  vòng hoa, một thằng Thuyên và những nấm mộ khác “lác đác vài nụ hoa bé tý, trăng  trắng, xanh xanh”, trên cành dương liễu đã đâm ra “những mầm non bằng nửa hạt  gạo”. Đó là mầm xanh của mùa xuân hy vọng, hứa hẹn một ngày mai ấm áp hơn, như  lời thơ Quách Mạt Nhược, người cùng thời và đồng hành với Lỗ Tấn:
             “Dẫu  vầng dương còn ở phương xa,
             Trong  nước biển đã nghe vang chuông sớm…”
                                                  (Kiếp tái sinh của nữ thần)
     Trong bài  “Vì sao tôi viết tiểu thuyết” Lỗ Tấn nói:  “Mỗi khi chọn đề tài, tôi đều chọn những người bất hạnh trong xã hội bệnh tật,  với mục đích lôi hết bệnh tật của họ ra, làm cho mọi người chú ý mà tìm cách  chạy chữa…”. Có lẽ vì thế mà áng văn này đã trở thành một “vị thuốc” rất công  hiệu để chạy chữa tình trạng u mê tăm tối và tê liệt tinh thần của quần chúng,  phê phán sự xa rời quần chúng của những nhà cách mạng. Cuộc đời tuy còn nhiều  nước mắt, nhiều bi kịch “vầng dương còn ở phương xa” nhưng “Thuốc” gợi lên nhiều  hy vọng. Hình ảnh vòng hoa và hai bà mẹ  cùng đi thăm mộ con đã đến với nhau qua tiếng khóc và sự an ủi, điều đó khẳng  định giá trị nhân đạo của truyện ngắn  này. 
 
 |  
  
 
		
		
		
 
  
 | 
 |   
 
    BÁO LỖI BÀI VIẾT
 Hãy gửi cốc trà đá cho TTB tài khoản ngân hàng phía dưới hoặc paypal : 
    paypalme/tuthienbao
 Giúp có kinh phí duy trì Free  
 
 
TÌM BÀI VIẾT KHÁC SEARCH TRÊN THANH TìM KIẾM PHÍA TRÊN WEB 
 
 
		
		
		
			
			
			
			
				 
			
			
			
			
			
			
			
				
			
			
			
		 
	
	 | 
 
 
 
 
	 
	
		
	
	
		
 
  	 	 
 
	
ADS
	
	
 
 
	
	
Miễn trừ trách nhiệm.NẾU CÓ ĐIỀU KIỆN HÃY MUA SÁCH ỦNG HỘ NHÀ XUẤT BẢN 
© Tuthienbao.com- TTB chúng tôi không cung cấp chức năng đăng ký thành viên để viết bài hay bình luận - Nếu có khiếu nại chung tôi sẽ xử lý.Mọi dữ liệu về diễn đàn trên website này đều được chúng tôi và các thành viên tham gia website tổng hợp từ  tất cả các trang website .Do đó, chúng tôi không chịu trách nhiệm về những dữ liệu được chia sẻ tại đây.Truyện Nội Dung được chia sẻ chỉ với mục đích giải trí, phi lợi nhuận. Mọi bản quyền thuộc về tác giả và nhà xuất bản gốc.Nếu có yêu cầu gỡ bỏ, xin liên hệ qua email
  
truyen tranh,
truyen tranh 8,truyen tranh hay,
truyen tranh online,
ebook,ebook ngon tinh,
van hoc lop 5,van hoc lop 6,van hoc lop 7,van hoc lop 8,van hoc lop 9,van hoc lop 10,van hoc lop 11,van hoc lop 12,
 
     | 
  
 
 
Powered by: vBulletin v3.8.2
 Copyright ©2000-2025, Jelsoft Enterprises Ltd.
 
	
	
		
	
	
 
      |