Nguyễn Công  Trứ  (1778 – 1858) Hiệu là Hi Văn quê ở Uy Viễn, Nghi Xuân, Hà Tĩnh. học giỏi, giàu  chí khí, tài hoa, đỗ thủ khoa. Văn võ toàn tài, nhiều thăng trầm trên đường công  danh, hoan lộ. Giàu lòng yêu nước thương dân. Lấn biển, khai hoang, di dân lập  ra 2 huyện Tiền Hải và Kim Sơn. Năm 80 tuổi vẫn xin vua cần quân ra trận đánh  Pháp (1858).
     Thơ văn để lại:  Trên 50 bài thơ, trên 60 bài hát nói và một bài phú nôm nổi tiếng “Hàn nho phong  vị phú”, một số câu đối nôm rất thâm thúy. 
Đi thi tự  vinh, Nợ tang bồng, Nợ công danh, Chí nam nhi, Trên vì nước, dưới vì nhà, Bài ca  ngất ngưởng… là những bài thơ rất nổi tiếng của Nguyễn Công  Trứ.
Xuất  xứ, chủ đề
       “Bài ca ngất  ngưởng” viết sau năm 1848 – là năm Nguyễn Công Trứ về trí sĩ ở Hà Tĩnh quê  nhà.
     - Như một lời tự thuật  cuộc đời, qua đó Nguyễn Công Trứ 
tự hào về tài năng và công danh bày tỏ một quan  niệm 
sống tài tử, phóng khoáng… ngoài  vòng kiềm tỏa.
Bố  cục bài hát nói
       - 
Khổ đầu (4 câu): Có tài danh nên ngất  ngưởng.
     - 
Khổ giữa (4 câu): Có danh vọng, về trí sĩ càng  ngất ngưởng.
     - 
Hai khổ dôi (8 câu tiếp): Một cuộc sống tài tử,  phóng túng ngất ngưởng.
     - 
Khổ xếp (3 câu cuối): Một danh thần nên ngất  ngưởng.
Nội  dung
       * 
Ngất ngưởng: Không vững ở chỗ cheo leo dễ đổ, dễ  rơi (từ điển tiếng Việt). Ở bài thơ này, nên hiểu là một con người khác đời, một  cách sống khác đời và bất chấp mọi người.
 
    1.  Khổ đầu, câu 1, 2 đối lập  giữa phận sự mang tầm vóc cũ trụ lớn lao với cảnh ngộ đã vào lồng” rất chật hẹp  tù túng. Thế mà ông Hi Văn đây - tự xưng rất đỗi kiêu hãnh tự hào - vẫn thi thố  được tài năng, học giỏi, thi hương đỗ giải nguyên (thủ khoa) làm quan võ là  
tham tán, làm quan văn là 
Tổng đốc Đông. Là một con người có tài 
thao lược nên ta (ông Hi Văn) đã nên
 tay ngất ngưởng, một con người khác đời, khác  thiên hạ, và bất chấp mọi người. Câu 3, 4 với cách ngắt nhịp (3 – 3 – 4 – 3 – 3 – 2) đã tạo nên một  giọng nói điệu hào hứng:
             “Khi thủ  khoa/ khi tham tán/ khi tổng đốc Đông/
             Gồm thao  lược/ đã nên tay/ ngất ngưởng”
 
    2.  Khổ giữa: Tác giả khẳng định  mình là một con người có tài hình bang tế thế, lúc loạn thì giúp nước “bình Tây  cờ đại tướng”, lúc bình thì giúp vua làm “phủ doãn Thừa Thiên”. Đó là việc đã  qua, còn nay ta đã về trí sĩ, nên ta sống ngất ngưởng bất chấp mọi  người:
             “Đô môn  giải tố chi niên
             Đạc ngựa  bò vàng đeo ngất ngưởng”
     Nay đã trả áo mũ  cho triều đình, ta về quê không cưỡi ngựa mà là cưỡi bò vàng; con bò vàng của ta  cũng đeo đạc ngựa, đó là một sự 
ngất  ngưởng, rất khác người.
 
    3.  Khổ dôi (hai khổ 3, 4) nói lên  một cách sống ngất ngưởng. Xưa là một danh tướng (tay kiếm cung) thế mà nay rất  
từ bi hiền lành, bình dị. Đi vãn cảnh  chùa chiền, đi thăm cảnh đẹp (Rú Nài): “Kìa núi nọ phau phau mây trắng”, ông đã  mang theo “một đôi dì” (một hai nàng hầu). Và do đó “Bụt cũng nực cười ông ngất  ngưởng”. Bụt cười hay thiên hạ cười, hay ông Hi Văn tự cười mình? Chuyện  
“được, mất” là lẽ đời như tích “thất mã  tái ông” mà thôi, chẳng bận tâm làm gì! Chuyện 
“khen, chê” của thiên hạ, xin bỏ ngoài tai như  ngọn gió đông (xuân) thổi phơi phới qua.
 Không quan tâm đến  chuyện 
được, mất, bỏ ngoài tai mọi lời  
khen, chê thị phi, ông đã sống những  tháng ngày thảnh thơi, vui thú. Tuy ngất ngưởng mà vẫn trong sạch, thanh cao.  Cách ngắt nhịp 2, nghệ thuật hòa thanh (bằng trắc) lối nhấn, lối diễn tả trùng  điệp đã tạo nên câu thơ giàu tính nhạc, biểu lộ một phong thái ung dung, yêu  đời, ham sống, chẳng vướng chút bụi trần:
             “Khi  
ca/ khi 
tửu/ khi 
cắc/ khi 
tùng
             Không  
Phật/ không 
tiên/ không 
vướng  tục”
 
    4.  Khổ xếp, Nguyễn Công Trứ tự  hào khẳng định mình là một danh thần thủy chung trong đạo “vua tôi” chẳng kém gì  những     Trái Tuân, Nhạc Phi, Hàn Kỳ, Phú Bật – những anh tài đời  Hán, đời Tống bên Trung Quốc. Rồi ông đĩnh đạc tự xếp 
vị thế của minh trong lịch sử:
             “Chẳng  Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú
             Nghĩa vua  tôi cho vẹn đạo sơ chung
             Trong  triều ai ngất ngưởng như ông”
     Hai so sánh xa  gần, ngoại, nội, Bắc sử và trong triều  (Nguyễn) tác giả đã kết thúc bài hát nói bằng một tiếng 
“ông” vang lên đĩnh đạc hào  hùng.
 Tóm lại,  với Nguyễn Công Trứ, phải có thực tài, phải có thực danh phải “vẹn đạo vua tôi”  thì mới trở thành “tay ngất ngưởng”, “ông ngất ngưởng” được và cách sống ngất  ngưởng của ông thể hiện chất tài hoa, tài tử, không ô trọc, “không vướng tục”  cũng không thoát li.
Nghệ  thuật độc đáo
        1.  Cái nhan đề, thi đề rất độc đáo. Cách bộc lộ bản ngã của ông Hi Văn cũng rất độc  đáo.
 
     2.  Chất thơ, chất nhạc hài hòa, phối hợp tài tình. Các câu 3, 4, 15, 16 là tuyệt  cú.
 
     3. Nguyễn  Công Trứ, Cao Bá Quát, Dương Khuê, Nguyễn Khuyến, Tản  Đà… là những nhà thơ cự phách để lại một số bài hát nói tuyệt tác. Nguyễn Công  Trứ đã tạo nên một 
giọng điệu mạnh mẽ hào hùng, chất  tài tử hòa nhịp với chí anh hùng, đó là cốt cách, là bản sắc những  bài thơ hát nói của Nguyễn Công Trứ.[/SIZE][/FONT]