Tìm kiếm chủ đề bài viết ở đây trước khi hỏi TTB -Tìm bằng tiếng việt có dấu càng chính xác-Ví Dụ:Đánh vào Hwang mi ri để tìm truyện tác giả này
 
Hãy ủng hộ mua bất kỳ sản phẩm trên shopee.vn truy cập Vào Đây tìm sản phẩm rồi mua, mỗi lượt mua đều giúp duy trì website hoạt động miễn phí
KHÔNG XEM ĐƯỢC ẢNH TRUY CẬP ĐỔI DNS CLICK VÀO ĐÂY 
 
   	  	 
 
 
		 
	 
 
  
	
	
		
	
	
	| 
		
		 
			
				23-09-2012, 09:25 PM
			
			
			
		 
	 | 
 
	
		
        
        
		
		        
 
                                |   	
                              
				
 				 Đầy Tớ Của Nhân Dân 
	
                 
 Facebook: https://www.facebook.com/tuthienbaocom 
		
 | 	
	
			
			 | 
	
			
	
                              
					  
					
					
					
				
			 | 
		  |  
		 
		
	 | 
 
	
	
		
	
		
		
			
			
				 
				Nghị luận xã hội tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
			 
			 
			
		
		
 
 
 
 
 
 
1. Chinh phụ ngâm nguyên văn bằng chữ Hán, do Đặng Trần Côn sáng tác.  Bản Nôm hiện hành, nhiều ý kiến thống nhất, là của dịch giả Đoàn Thị  Điểm. Trước cảnh chiến tranh liên miên đầu thế kỉ XVIII, cảm động trước  thời thế, Đặng Trần Côn đã viết Chinh phụ ngâm. Qua nỗi niềm và tâm  trạng cô đơn, tủi hờn của người chinh phụ, tác phẩm đã nói lên sự oán  ghét chiến tranh phong kiến phi nghĩa, đặc biệt là thể hiện tâm trạng  khao khát tình yêu, hạnh phúc lứa đôi. Bản dịch đã thể hiện tài năng của  tác giả và dịch giả trong việc thể hiện những trạng thái tâm lí vô cùng  tinh tế và phức tạp của người vợ nhớ chồng. 
  
* Về bản dịch Chinh phụ ngâm hiện có tất thảy bảy bản dịch và phỏng dịch  bằng các thể song thất lục bát (bốn bản) và lục bát (ba bản) của các  dịch giả : Đoàn Thị Điểm, Phan Huy Ích, Bạch Liên Am Nguyễn và hai tác  giả khuyết danh, nhưng chưa biết bản dịch nào của ai. Riêng bản dịch  thành công nhất và được phổ biến rộng rãi xưa nay, thể song thất lục  bát, 412 câu (bản in chữ Nôm cũ hiện còn (1902, AB26), hoặc 408 câu  (một bản khác lưu tại thư viện Pa-ri) có người cho là của Đoàn Thị Điểm,  có người cho là của Phan Huy Ích. 
(Nguyễn Lộc, Từ điển văn học, tập I, Sđd) 
  
* So bản dịch của bà với bản chữ nho thì thấy văn dịch rất sát nghĩa  nguyên văn mà lời văn êm đềm, ảo não, rõ ra giọng một người đàn bà buồn  bã, nhưng có vẻ thê lương hơn là vẻ đau đớn, không đến nỗi réo rắt, sầu  khổ như giọng văn cung oán, thật là lời văn hợp cảnh vậy. Bản dịch viết  theo thể "song thất". Có nhiều đoạn đặt theo lối liên hoàn, những chữ  cuối câu trên láy lại làm chữ đầu câu dưới, cứ thế đặt dài tới mấy câu,  thật hợp với tình buồn liên miên không dứt của người chinh phụ. 
(Dương Quảng Hàm, Việt Nam văn học sử yếu, 1950) 
  
2. Người chinh phụ vốn dòng dõi trâm anh quyền quý, nàng tiễn chồng ra  trận với mong muốn người chồng sẽ lập công danh nơi yên ngựa và trở về  trong cảnh vinh hoa. Thấm nỗi cô đơn lẻ loi, nàng nhận ra tuổi xuân của  mình đang đi qua và hạnh phúc lứa đôi ngày càng xa vời. Người chinh phụ  rơi vào tâm trạng cô đơn cùng cực. Khúc ngâm thể hiện tâm trạng cô đơn  ấy của người chinh phụ. Đoạn trích miêu tả tâm trạng lẻ loi của người  chinh phụ trong cảnh chờ chồng. 
  
Đầu đời Cảnh Hưng, chiến tranh xảy ra liên miên, hết Lê  Mạc đánh nhau  đến Trịnh  Nguyễn kéo dài cuộc phân tranh, đất nước chia làm hai nửa  dưới cái ngai vàng mục ruỗng, rồi khởi nghĩa nông dân nổ ra khắp nơi.  Nhân dân sống trong cảnh nồi da nấu thịt, loạn li chinh chiến, cha mẹ xa  con, vợ xa chồng. Văn học thời kì này tập trung phản ánh bản chất thối  nát, bộ mặt tàn bạo của chế độ phong kiến và nỗi đau khổ của con người   những nạn nhân của chế độ xã hội ấy. Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn  ra đời đã nhận được sự đồng cảm của rất nhiều nho sĩ. Nhiều bản dịch  Chinh phụ ngâm ra đời, trong đó bản dịch được cho là của Đoàn Thị Điểm  là bản dịch thành công hơn cả vì dịch giả đã gặp được ở đó sự đồng cảm  sâu sắc. 
  
Hình tượng nổi bật của Chinh phụ ngâm là hình tượng người chinh phụ héo  mòn trong trông ngóng chờ đợi. Người chinh phụ hiện lên trong khúc ngâm  với ước vọng công hầu và khát khao hạnh phúc lứa đôi. Được nuôi dưỡng  trong nền giáo dục Nho gia, người phụ nữ quý tộc phong kiến cũng từng  mong ước, tự hào về hình ảnh một người chồng dũng mãnh : 
  
Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt 
Xếp bút nghiên theo việc đao cung 
Thành liền mong tiễn bệ rồng 
Thước gươm đã quyết chẳng dong giặc trời 
Chí làm trai dặm nghìn da ngựa 
Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao 
  
Thế nhưng sau những ngày mỏi mòn chờ chồng trong tuyệt vọng, nàng rơi  vào tâm trạng cô đơn, tuyệt vọng và cất lời oán trách. Qua tâm trạng của  người thiếu phụ, khúc ngâm là tiếng nói oán trách chiến tranh phong  kiến đã giày xéo lên hạnh phúc lứa đôi. 
  
Chinh phụ ngâm là một tác phẩm trữ tình, từ đầu đến cuối tác phẩm vẫn  chỉ là tâm trạng của nhân vật trữ tình  người chinh phụ. Khúc ngâm được  phát triển theo mạch tâm trạng và nỗi nhớ nhung của người chinh phụ.  Đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ đã bao quát được những  trạng thái tâm trạng của người chinh phụ. Nội tâm đầy biến động được  diễn tả qua những từ ngữ chỉ ngoại hình, tả hành động, tả việc làm của  người chinh phụ. Người thiếu phụ trong Khuê oán của Vương Xương Linh vẫn  vô tư trang điểm má hồng để lên lầu biếc ngắm cảnh xuân, chỉ khi ngắm  màu dương liễu mới bừng tỉnh và nhận ra cảnh ngộ cô đơn của mình ; còn  người chinh phụ này luôn chìm đắm trong nỗi cô đơn. Sự trông đợi mỏi mòn  và vô vọng đã khiến nàng trễ nải cả việc điểm phấn tô son, công việc  quan trọng nhất của người phụ nữ nơi gác tía lầu son như nàng : 
  
Trâm cài xiêm thắt thẹn thùng, 
Lệch vòng tóc rối, lỏng vòng lưng eo. 
  
Nỗi đau buồn của người thiếu phụ trong cảnh đợi chồng đi chiến trận đã  khiến nàng mất hết sức lực, như người mộng du trong ngôi nhà của mình : 
  
Há như ai hồn say bóng lẫn, 
Bỗng thơ thơ thẩn thẩn như không. 
  
Sự chờ đợi vô vọng đã khiến nàng tê liệt cả tinh thần. Với việc miêu tả  dáng vẻ bề ngoài, tác giả đã lột tả được trạng thái tâm lí phức tạp  trong nội tâm của người thiếu phụ. Người thiếu phụ hiện lên với vẻ mệt  mỏi và buông xuôi, nỗi cô đơn đã giày vò cả tâm thần và thể xác của  người thiếu phụ khiến nàng nhạt phấn phai hương. Nỗi cô đơn bao trùm cả  lên không gian và thời gian, ngày và đêm. Trong và ngoài căn phòng đều  tràn ngập nỗi cô đơn. Chỉ có người thiếu phụ đối diện ngọn đèn, tình  cảnh lẻ loi càng hiện rõ hơn. Cái vẻ lẻ loi tội nghiệp ấy hiện lên thật  rõ ràng với hình ảnh : 
  
Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước 
  
Giữa cái không gian tĩnh mịch của đêm, tiếng bước chân chậm rãi như gieo  vào lòng người cái âm thanh lẻ loi cô độc. Pu-skin trên con đường mùa  đông vắng vẻ, cô đơn hơn bởi tiếng lục lạc đơn điệu thì người chinh phụ  cô đơn hơn khi nghe tiếng bước chân của mình. Nỗi đau đớn âm thầm nhưng  quá lớn ấy khiến nàng khao khát có sự đồng cảm. Nhưng chỉ có ngọn đèn  đối diện với nàng mà thôi. Liệu ngọn đèn có thấu hiểu được không hay sức  nặng của nỗi cô đơn, của sự nhung nhớ lại dồn cả lên nàng. Ngọn đèn chỉ  là vật vô tri vô giác, "có biết dường bằng chẳng biết" : 
  
Đèn có biết dường bằng chẳng biết, 
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi. 
Buồn rầu nói chẳng nên lời, 
Hoa đèn kia với bóng người khá thương. 
  
Cảnh vật không san sẻ mà cộng hưởng cùng nỗi sầu của người chinh phụ  khiến nàng đau càng đau, sầu càng sầu. Nỗi chờ đợi ngày càng vô vọng.  Dường như người thiếu phụ thức trắng cả năm canh và bị nỗi nhớ nhung  giày vò : 
  
Gà eo óc gáy sương năm trống, 
Hoè phất phơ rủ bóng bốn bên. 
  
Dịch giả đã sử dụng rất hợp lí những từ ngữ thuần Việt với những chữ như  "eo óc", "phất phơ", những từ ngữ ấy dùng để tả cảnh nhưng đã chuyển  tải được nỗi cô độc, buồn sầu của người thiếu phụ. Nó vừa gợi hình ảnh,  vừa gợi tâm trạng. Dáng hoè phất qua bên nọ bên kia gợi nên hình ảnh  người chinh phụ vật vã trong nhớ nhung giữa đêm khuya lẻ loi. Đếm từng  khắc thời gian trôi đi chậm chạp, nhìn xung quanh thì bốn phía chỉ là  cây hoè rủ bóng, nàng chìm ngập trong nỗi cô đơn. Khi chờ đợi bao giờ  thời gian cũng rất dài. Thuý Kiều trong tâm trạng đợi chờ Kim Trọng : 
  
Sầu đong càng lắc càng đầy, 
Ba thu dọn lại một ngày dài ghê ! 
Giống như tâm trạng người chinh phụ chờ chồng : 
Khắc giờ đằng đẵng như niên, 
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa. 
  
Thời gian cứ dài dằng dặc và không gian thì mênh mông vô tận, người  chinh phụ nhỏ bé và đơn độc trước không gian và thời gian. Biết nỗi đợi  chờ là vô vọng, nàng đã cố gắng để đưa mình ra khỏi nỗi cô đơn. Gắng  gượng điểm phấn tô son, dạo đàn nhưng càng cố gắng vùng vẫy càng lún sâu  hơn vào sự tuyệt vọng. Chạm đến đâu cũng là chạm vào nỗi đau, cũng nhìn  thấy cảnh lẻ loi đơn chiếc. Soi gương thì nước mắt đầm đìa bởi nàng  phải đối diện với gương mặt thanh xuân đang mỏi mòn dần và thì xuân sắc  đang phũ phàng trôi qua. Khúc đàn loan phượng thì gợi nhớ cảnh chồng vợ  chia lìa. 
  
Nỗi đau đớn, tủi hờn của người chinh phụ thể hiện nỗi khao khát hạnh  phúc lứa đôi chân chính. Với nỗi niềm cảm thông sâu sắc, tác giả và dịch  giả đã thể hiện rất tinh tế và thành công những trạng thái tâm lí phức  tạp của người thiếu phụ, qua đó thể hiện thái độ của mình trước những  cuộc chiến tranh, binh biến liên miên dưới chế độ phong kiến thế kỉ  XVIII. Tuy tác phẩm không nói rõ tính chất cuộc chiến tranh mà người  chinh phu tham gia, song dựa trên những điều kiện lịch sử khi tác phẩm  ra đời, có thể nhận thấy, đó không phải là cuộc chiến tranh vệ quốc, mà  là cuộc chiến giành giật quyền lực của các tập đoàn phong kiến, những  cuộc chiến phi nghĩa. 
  
Dịch Chinh phụ ngâm, dịch giả đã chọn thể thơ song thất lục bát, một thể  thơ dân tộc có khả năng lớn trong việc thể hiện tâm trạng của nhân vật,  nhất là tâm trạng buồn đau, sầu muộn. Dịch giả đã dịch rất thanh thoát  nội dung của nguyên tác, thể hiện chân thực nỗi buồn của người thiếu phụ  phương Đông, mãnh liệt, da diết nhưng kín đáo. Chinh phụ ngâm đã đánh  dấu một bước tiến vượt bậc của ngôn ngữ văn học dân tộc. Với tác phẩm  này, tiếng Việt đã chứng minh khả năng diễn tả tư tưởng tình cảm một  cách sâu sắc, tinh tế. Với tấm lòng thương yêu và sự cảm thông sâu sắc  với những khát khao hạnh phúc chính đáng của người thiếu phụ, tác giả và  dịch giả cất lên tiếng kêu nhân đạo, tiếng kêu phản đối chiến tranh phi  nghĩa. Thái độ phản chiến tuy không bộc lộ trực tiếp song lại rất mạnh  mẽ. Chiến tranh đã cướp đi của con người hạnh phúc và tuổi trẻ, thậm chí  cả mạng sống. Vì một cuộc chiến, có biết bao người vợ phải xa chồng,  phải giam mình trong nỗi cô đơn, buồn tủi như người chinh phụ kia. Có  người đón chồng trở về khi tóc đã pha sương, nhưng đó còn là may mắn. Có  người đau xót đón tin chồng không trở về sau những ngày mỏi mòn trông  đợi. 
  
"Vì ai gây dựng cho nên nỗi này" là lời oán thán nặng nề nhất trong  Chinh phụ ngâm, lời ai oán không mạnh mẽ nhưng uất ức và oán trách. Đó  là một trong những giá trị của Chinh phụ ngâm. Nhưng cao hơn cả, tác  phẩm là sự tiếp nối xuất sắc cảm hứng nhân đạo của nền văn học dân tộc,  một lần nữa, những khao khát hạnh phúc chính đáng của người phụ nữ dưới  chế độ phong kiến lại được ủng hộ. Đề tài về thân phận người phụ nữ lại  được góp thêm một tiếng nói mới đầy sức mạnh nhân văn.. 
 
 |  
  
 
		
		
		
 
  
 | 
 |   
 
    BÁO LỖI BÀI VIẾT
 Hãy gửi cốc trà đá cho TTB tài khoản ngân hàng phía dưới hoặc paypal : 
    paypalme/tuthienbao
 Giúp có kinh phí duy trì Free  
 
 
TÌM BÀI VIẾT KHÁC SEARCH TRÊN THANH TìM KIẾM PHÍA TRÊN WEB 
 
 
		
		
		
			
			
			
			
				 
			
			
			
			
			
			
			
				
			
			
			
		 
	
	 | 
 
 
 
 
	 
	
		
	
	
		
 
  	 	 
 
	
ADS
	
	
 
 
	
	
Miễn trừ trách nhiệm.NẾU CÓ ĐIỀU KIỆN HÃY MUA SÁCH ỦNG HỘ NHÀ XUẤT BẢN 
© Tuthienbao.com- TTB chúng tôi không cung cấp chức năng đăng ký thành viên để viết bài hay bình luận - Nếu có khiếu nại chung tôi sẽ xử lý.Mọi dữ liệu về diễn đàn trên website này đều được chúng tôi và các thành viên tham gia website tổng hợp từ  tất cả các trang website .Do đó, chúng tôi không chịu trách nhiệm về những dữ liệu được chia sẻ tại đây.Truyện Nội Dung được chia sẻ chỉ với mục đích giải trí, phi lợi nhuận. Mọi bản quyền thuộc về tác giả và nhà xuất bản gốc.Nếu có yêu cầu gỡ bỏ, xin liên hệ qua email
  
truyen tranh,
truyen tranh 8,truyen tranh hay,
truyen tranh online,
ebook,ebook ngon tinh,
van hoc lop 5,van hoc lop 6,van hoc lop 7,van hoc lop 8,van hoc lop 9,van hoc lop 10,van hoc lop 11,van hoc lop 12,
 
     | 
  
 
 
Powered by: vBulletin v3.8.2
 Copyright ©2000-2025, Jelsoft Enterprises Ltd.
 
	
	
		
	
	
 
      |