Trên thực tế, ngoại trừ giới nghiên cứu chuyên sâu, bạn đọc thường không  mấy ai chú ý đến nguyên tác Chinh phụ ngâm bằng chữ Hán của Đặng Trần  Côn - quê làng Nhân Mục, huyện Thanh Trì (nay thuộc phường Nhân Chính,  quận Thanh Xuân, Hà Nội) mà chỉ biết tới bản diễn Nôm của nữ sĩ Đoàn Thị  Điểm (1705-1748), người làng Giai Phạm, huyện Văn Giang, xứ Kinh Bắc  (nay thuộc tỉnh Hưng Yên).
Tương đồng với Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều trên phương diện  khẳng định những giá trị nhân văn và phản ánh số phận người phụ nữ cũng  như khả năng vận dụng nhuần nhuyễn thể loại ngâm khúc và thể thơ song  thất lục bát, song bản diễn Nôm Chinh phụ ngâm lại có phần giản lược  những suy tưởng triết lý cao siêu và hướng nhiều hơn tới cuộc sống đời  thường. Tâm tình người chinh phụ tiêu biểu cho nỗi nhớ mong chồng, khát  khao cuộc sống gia đình bình dị và ước mong về một ngày đoàn tụ vợ  chồng. Đặt trong tương quan chung, ước mơ của người chinh phụ cũng hiền  hoà, dung dị, gần gũi hơn so với người cung nữ. Đoạn trích Tình cảnh lẻ  loi của người chinh phụ cho thấy rõ tâm trạng cô đơn của người vợ nhớ  chồng ra trận và nghệ thuật miêu tả tâm trạng bậc thầy của hai tác giả  Đặng - Đoàn, trong đó phải kể đến nghệ thuật diễn Nôm đặc biệt xuất sắc  của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm.
Tâm trạng nổi bật trong đoạn trích gồm 36 câu thơ trong tổng số 408 câu  của toàn tác phẩm là sự thể hiện nỗi đơn côi, trống vắng của người chinh  phụ. Trước hết đó là sự ý thức về con người cá nhân chiếu ứng trong các  quan hệ với cảnh vật và con người, đặt trong tương quan với thời gian  và không gian. Nhân vật chủ thể trữ tình - người chinh phụ xuất hiện như  có như không, vừa tỉnh thức trong từng bước đi, từng động tác buông thả  tấm rèm nhưng liền đó lại quên tất thảy, thờ ơ với tất thảy:
Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.
Trong khổ thơ mở đầu (từ câu 1 - 16) có hai hình ảnh quan trọng được tô  đậm, nhấn mạnh trở đi trở lại là tấm rèm và bóng đèn. Người chinh phụ  "ngồi rèm thưa" mà trông ra ngoài ngóng đợi tin chồng nhưng chẳng thấy  đâu. Cuộc sống nơi "trong rèm" chính là sự bó buộc, trói buộc trong một  không gian chật hẹp, tù đọng. Câu thơ chuyển tiếp Trong rèm dường đã có  đèn biết chăng càng tôn thêm vẻ vắng lặng, đơn côi, một mình chinh phụ  đối diện với bóng mình, đối diện với người bạn vô tri vô giác Đèn có  biết dường bằng chẳng biết và đi đến kết cuộc Hoa đèn kia với bóng người  khá thương... Rõ ràng cuộc đời người chinh phụ hầu như đã mất hết sức  sống, con người đã bị "vật hoá" tựa như tàn đèn cháy đỏ kết lại đầu sợi  bấc, con người bây giờ chỉ còn là "bóng người" trống trải, vừa đối xứng  vừa đồng dạng và là hiện thân của chính ---- hoa đèn tàn lụi. Ngay đến  cảnh vật và sự sống bên ngoài cũng nhuốm vẻ tang thương, vô cảm, chập  chờn bất định, không dễ nắm bắt với những "gà eo óc gáy sương", "hoè  phất phơ rủ bóng"... Bên cạnh đó, dòng thời gian tâm lý cũng chuyển hoá  thành sự đợi chờ mòn mỏi, thời gian đầy ắp tâm trạng đơn côi nhưng không  có sự sống, không sự kiện, không thấy đâu bóng dáng hoạt động của con  người:
Khắc chờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.
Trong sự chờ đợi, người chinh phụ thấy một khoảng thời gian ngắn mà dài  như cả năm trường, mối sầu trào dâng như biển lớn mênh mang. Những trạng  từ "đằng đẵng", "dằng dặc" tạo nên âm điệu buồn thương, ngân xa như  tiếng thở dài của người thiếu phụ đăm đắm chờ chồng. Rút cuộc, hình bóng  người chinh phụ có xuất hiện trở lại thì trước sau vẫn là nỗi chán  chường, buông xuôi, vui gượng "Hương gượng đốt", "Gương gượng soi", "Sắt  cầm gượng gảy" mà không sao che đậy nổi một hiện thực bất như ý "hồn đà  mê mải", "lệ lại châu chan" và "Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại  chùng"...
Ở đoạn thơ tiếp theo (câu 17 - 28) là sự phản ánh nỗi lòng chinh  phụ khi nhớ về người chồng. Có điều, nếu hình ảnh người chồng hiện diện  như một ý niệm xa mờ thì bản thân nỗi nhớ mong cũng chỉ như một ảo giác.  Sự gặp gỡ là điều không thể bởi tin tức mịt mờ, bởi khoảng cách về  không gian, về địa danh có tính phiếm chỉ, biểu tượng của miền "non  Yên", "đường lên bằng trời", "xa vời khôn thấu"... Các từ "thăm thẳm",  "đau đáu", "thiết tha" gợi nhớ gợi thương, day đi dứt lại trong tâm can  người chinh phụ. Sắc thái nỗi nhớ tăng tiến, rộng mở từ những suy tưởng  dõi theo người chồng nơi phương xa đến sự dồn nén cảm xúc thành nỗi xót  xa, đắng cay nối dài bất tận:
- Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời
- Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong
Giống như tâm sự Thúy Kiều trong Truyện Kiều: "Cảnh nào cảnh chẳng đeo  sầu - Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?", người chinh phụ có lúc thấy  cảnh vật vô hồn, thê lương nhưng có khi lại cảm nhận cả khoảng không  gian và cảnh vật như đang hối thúc, giục giã, đổi thay, không tìm thấy  đâu sự hô ứng, đồng cảm giữa tình người với thiên nhiên:
Cảnh buồn người thiết tha lòng,
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun.
Sương như búa, bổ mòn gốc liễu,
Tuyết dường cưa, xẻ héo cành ngô.
Hình ảnh so sánh "sương như búa", "tuyết dường cưa" là sự cực tả những  xao động của thế giới bên ngoài thông qua cách hình dung của chinh phụ,  khi nàng bất chợt không còn chịu đựng nổi ngay cả vẻ bình dị đời thường  và bột phát thành những ám ảnh dị thường. Đó là những tâm trạng khác  biệt nhau cùng tồn tại trong một con người, sự phân thân trong cách cảm  nhận về thiên nhiên, cuộc sống. Trong bản chất, chính tình cảnh lẻ loi  của người chinh phụ đã tạo nên những xung đột tình cảm khác biệt nhau và  phổ vào thế giới tự nhiên tất cả những trái ngang, những thất vọng và  cả niềm hy vọng mong manh, những giây lát yên tĩnh nhất thời và những  cơn bão lòng dường như không thể nguôi khuây.
Bước vào đoạn cuối (câu 29 - 36), người chinh phụ vươn tới không gian  thoáng rộng hơn với những hàng hiên, ngọn gió, bóng hoa, ánh trăng nhưng  đó cũng chỉ là thiên nhiên lạnh lùng, thiếu hẳn niềm tin và hơi thở ấm  áp của sự sống. Cảnh vật như tách khỏi con người và không thấy đâu hoạt  động của con người. Tất cả chỉ đơn thuần là cảnh vật và vì thế càng tôn  thêm vẻ lạnh lùng, đối lập với tâm tư con người và hình ảnh nhân vật  chinh phụ đang khuất lấp, ẩn chìm đâu đó:
Hoa dãi nguyệt, nguyệt in một tấm,
Nguyệt ***g hoa, hoa thắm từng bông.
Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng,
Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đâu!
Đến hai câu thơ cuối bắt đầu hé mở tâm trạng so sánh. Người chinh phụ  nhìn cảnh hoa nguyệt mà trạnh lòng bâng khuâng xót xa cho thân phận  mình, tủi phận mình lẻ loi trước cảnh nguyệt hoa. Từ đây có thể nói tới  những dự cảm về ý thức cá nhân của người chinh phụ và xa gần liên hệ tới  quyền sống, quyền hưởng niềm vui, hạnh phúc lứa đôi giữa chốn nhân  gian.
Trên phương diện nghệ thuật, thể thơ song thất lục bát với sự kết hợp  hai câu thơ bảy chữ kiểu Đường thi hàm súc, trang nhã, đăng đối và câu  thơ lục bát truyền thống giàu âm điệu, gợi cảnh gợi tình đã tạo nên nhịp  thơ buồn thương man mác, nối dài không dứt. Quan sát kỹ có thể thấy  từng bốn câu thơ đi liền nhau tạo thành một tiết đoạn, trong đó hai câu  thất ngôn đóng vai trò khơi dẫn ý tứ, hai câu lục bát tiếp theo hướng  tới luận bình, khai triển, mở rộng. Cứ như thế, các ý thơ, khổ thơ tiếp  tục luân chuyển, nối tiếp nhau như những ngọn sóng cảm xúc đang trào  dâng. Ngay trong từng câu thơ cũng xuất hiện những tiểu đối tạo nên tính  chất hô ứng, đăng đối, tạo ấn tượng và sự nhấn mạnh:
- Dây uyên kinh đứt/ phím loan ngại chùng
- Cành cây sương đượm/ tiếng trùng mưa phun
- Sâu tường kêu vắng/ chuông chùa nện khơi
Thêm nữa, tác phẩm diễn Nôm bên cạnh việc giữ lại và Việt hoá được cả hệ  thống điển tích và từ Hán Việt (non Yên, sắt cầm, dây uyên, phím loan,  gió đông...) thì nhiều ý tứ trong nguyên tác đã được chuyển dịch, nâng  cấp thành lời thơ thật sự giàu chất thơ. Chẳng hạn, với câu Sầu tự hải -  Khắc như niên (nguyên ý nghĩa chỉ là Sầu tựa biển - Khắc như năm) đã  được chuyển dịch thành câu thơ mang sắc thái nội tâm hoá, giàu cảm xúc,  khơi gợi âm điệu cảm thương:
Khắc chờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.
Đoạn trích nói về tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ cũng như toàn bộ  tác phẩm Chinh phụ ngâm là tiếng kêu thương của người phụ nữ chờ chồng,  nhớ thương người chồng chinh chiến phương xa. Tình cảnh lẻ loi đó được  chiếu ứng trong sự cảm nhận về thời gian đợi chờ đằng đẵng, không gian  trống vắng vây bủa bốn bề và cuộc sống hoá thành vô vị, mất hết sinh  khí. Trên tất cả là tâm trạng cô đơn và sự ý thức về thảm trạng mất đi  niềm tin, đánh mất niềm vui sống và mối liên hệ gắn bó với cuộc đời rộng  lớn. Trạng thái tình cảm đó một mặt có ý nghĩa tố cáo những cuộc chiến  tranh phi nghĩa đã đẩy bao nhiêu người trai ra trận và hệ quả tiếp theo  là bao nhiêu số phận chinh phụ héo hon tựa cửa chờ chồng, mặt khác xác  nhận nhu cầu nói lên tiếng nói tình cảm và sự ý thức về quyền sống,  quyền hưởng hạnh phúc lứa đôi của người phụ nữ ngay giữa cuộc đời trần  thế này. Không có gì khác hơn, đó chính là khả năng mở rộng diện đề tài,  khai thác sâu sắc hơn thế giới tâm hồn con người, xác định nguồn cảm  xúc tươi mới và khẳng định những giá trị nhân văn cao cả mà khúc ngâm đã  đem lại, đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc của giai đoạn văn chương  thế kỷ XVIII trong tiến trình phát triển chung của nền văn học dân tộc.