Tìm kiếm chủ đề bài viết ở đây trước khi hỏi TTB -Tìm bằng tiếng việt có dấu càng chính xác-Ví Dụ:Đánh vào Hwang mi ri để tìm truyện tác giả này
 
Hãy ủng hộ mua bất kỳ sản phẩm trên shopee.vn truy cập Vào Đây tìm sản phẩm rồi mua, mỗi lượt mua đều giúp duy trì website hoạt động miễn phí
KHÔNG XEM ĐƯỢC ẢNH TRUY CẬP ĐỔI DNS CLICK VÀO ĐÂY 
 
   	  	 
 
 
		 
	 
 
  
	
	
		
	
	
	| 
		
		 
			
				11-09-2012, 08:58 PM
			
			
			
		 
	 | 
 
	
		
        
        
		
		        
 
                                |   	
                              
				
 				 Đầy Tớ Của Nhân Dân 
	
                 
 Facebook: https://www.facebook.com/tuthienbaocom 
		
 | 	
	
			
			 | 
	
			
	
                              
					  
					
					
					
				
			 | 
		  |  
		 
		
	 | 
 
	
	
		
	
		
		
			
			
				 
				Thuyết minh về đoạn trích "Nỗi thương mình"
			 
			 
			
		
		
 
 
 
 
 
 
Thử thách lớn nhất và cũng là bi đát  nhất của Thúy Kiều chính là hoàn cảnh mà nàng đã bị đẩy vào: làm kĩ nữ  chốn lầu xanh. Nói gì đến giữ gìn danh tiết với Kim Trọng, trong hoàn  cảnh ấy, ngay cái nhân cách tối thiểu của người đàn bà trong xã hội cũ  Kiều làm thế nào để giữ cho khỏi bị mai một được? Làm thế nào để viết về  thực tế ấy – thực tế của cái cảnh “sống làm vợ khắp người ta” mà vẫn  thể hiện được nhân cách của nhân vật, vẫn bộc lộ được thái độ trân  trọng, sự cảm thông, vẫn nói lên được sự đau khổ, thương thân phận mình  của nhân vật? Tài năng nghệ thuật độc đáo, cái nhìn vượt thời đại và đặc  biệt tinh thần nhân đạo mới mẻ của Nguyễn Du đã thể hiện trọn vẹn trong  đoạn trích “Nỗi thương mình”. 
  
“Rường cao rút ngược dây oan 
Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền” 
  
Từ lúc gia đình gặp biến cố, phải bán mình chuộc cha, trao duyên lại cho  em là Thúy Vân, Kiều đã trải qua 15 năm lưu lạc, trong 15 năm ấy, Kiều  gặp phải bao sự lọc lừa nhưng lần Thúy Kiều bị lừa đau đớn nhất có lẽ là  lần nàng bị Mã Giám Sinh lừa bán đến lầu xanh. Nó là bước ngoặt bẻ  ngang cuộc đời Thúy Kiều rẽ sang một hướng khác. Rơi vào tay Tú Bà, Kiều  rút dao định tự tử nhưng không thành. Ở lầu Ngưng Bích, Kiều lại mắc  bẫy Sở Khanh, bị Tú Bà đánh đập tơi bời, đến mức phải rên lên: “Thân  lươn bao quản lấm đầu, tấm lòng trinh bạch từ sau xin chừa”. Tiếp đó là  những tháng ngày ê chề nhục nhã của nàng trong vai trò kĩ nữ - gái làng  chơi, đem tấm thân trong ngọc trắng ngà của mình mua vui cho những kẻ  lắm tiền háo sắc. Nguyễn Du đã ghi lại tâm trạng của Kiều trong thời  gian ấy. 
Có một điểm cần chú ý ngay từ đầu là trong nguyên tác của Thanh Tâm tài  nhân thì trọng tâm của đoạn này: một mặt là bài ca kể về thân phận Thúy  Kiều từ khi gia biến đến khi bị Sở Khanh lừa và phải đồng ý tiếp khách,  mặt khác tập trung vào lời dạy của Tú Bà về nghề kĩ nữ. Đến Nguyễn Du,  cách xử lí nghệ thuật đã có sự thay đổi hoàn toàn. Gốc rễ của cách xử lí  nghệ thuật độc đáo ấy là cách nhìn mới mẻ và chủ nghĩa nhân đạo mới mẻ  của nhà thơ. 
Từ câu thứ 5 của đoạn trích, trước đây được đặt tên là “Những nỗi lòng  tê tái”. Trong sách giáo khoa mới, “Nỗi thương mình” chỉ vẻn vẹn 20 câu  nhưng đã nói lên tất cả nỗi tê tái của Kiều nhưng quan trọng hơn là đoạn  trích đã thể hiện một tiếng nói nhân văn sâu sắc và tiến bộ: ý thức về  thân phận, phẩm giá của nàng Kiều – ý thức thương thân, xót thân lần đầu  tiên xuất hiện trong văn học trung đại Việt Nam. 
  
Có một bài toán “nan giải” đặt ra với Nguyễn Du: tác giả muốn tố cáo một  cách sâu sắc nơi đã vùi dập Kiều, những thân phận như Kiều. Đó cũng là  một hình ảnh thu nhỏ của xã hội phong kiến mà Kiều đang sống với tất cả  sự nhơ nhớp, mục ruỗng của nó. Cái khó là: nói về cảnh lầu xanh nhưng  làm sao cho sự miêu tả hiện thực đó không gây ra phản cảm với độc giả,  không hạ thấp nhân vật, thể hiện được nhân cách, phẩm giá của nhân vật  trong sự cảm thông của nhà thơ. Nguyễn Du đã thành công với những xử lí  nghệ thuật độc đáo của mình. 
Đoạn trích có một kết cấu lôgíc với diễn biến tâm trạng: đoạn đầu giới  thiệu tình cảnh trớ trêu của Kiều, “khi tỉnh rượu… nào biết có xuân là  gì” đi sâu vào tâm tình, nỗi niềm của Kiều trong cảnh sống ấy, và đoạn  cuối tả cảnh để cực tả tâm trạng cô đơn, ý thức về thân phận, phẩm giá  của Kiều. 
  
Bốn câu thơ đầu của đoạn thơ là cả một hiện thực tàn nhẫn mà Kiều phải chịu đựng: chốn lầu xanh với những đặc trưng của nó: 
  
“Biết bao bướm lả ong lơi 
Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm 
Dập dìu lá gió cành chim 
Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Trường Khanh”. 
  
Bút pháp ước lệ tượng trưng được sử dụng nhuần nhuyễn đến mức trở thành  một công cụ nghệ thuật đắc lực. Bởi vì trên thực tế, nếu phải gọi sự  thật bằng đúng cái tên của nó thì Kiều trong đoạn trích này là một cô  gái lầu xanh. Một loạt từ ngữ dẫu là ước lệ vẫn đủ để thông báo về tình  cảnh và thân phận của Kiều – mặc dù bốn câu đầu này, nhân vật không hề  được miêu tả trực tiếp: “bướm lả ong lơi, cuộc say đầy tháng, trận cười  suốt đêm” và các điển tích điển cố: “lá gió cành chim”, “Tống Ngọc,  Trường Khanh” – chỉ chung cho loại khách làng chơi phong lưu. Nguyễn Du  đã tìm được một góc nhìn và cách xử lí nghệ thuật đặc biệt: viết về cảnh  lầu xanh nhưng lại dùng những từ và hình ảnh rất nhã. Cách xử lí nghệ  thuật này giúp tác giả vượt qua một vấn đề nan giải, một mặt vẫn tả  thực, không né tránh hiện thực và cảnh sống thực tế của nhân vật chính,  mặt khác vẫn giữ được chân dung cao đẹp của nhân vật chính Thúy Kiều,  qua đó thể hiện thái độ cảm thông, trân trọng mà tác giả dành cho nhân  vật. Thái độ này là nhất quán trong tác phẩm. 
  
Quan sát kĩ hơn những chi tiết nghệ thuật mà Nguyễn Du cố ý bày ra sẽ  nhận thấy sự mâu thuẫn ẩn chứa bên trong cảnh tượng. Những từ “đầy  tháng, suốt đêm” là những từ chỉ số nhiều, cho thấy sự nhộn nhịp của lầu  xanh, nơi mà Tú Bà “ăn nên làm ra”, lầu xanh như một chốn đang vào dịp  “được mùa”, “đắt khách”. Cái xấu như đang ra sức bòn rút tất cả những  giá trị của con người. Lầu xanh trở thành nơi chôn vùi không biết bao  nhiêu số phận như Kiều. Cảnh lầu xanh thực chất cũng là một phần của bức  tranh XHPK Trung Quốc thời Minh – Thanh thu nhỏ, cả thời đại mà Nguyễn  Du sống, cuối thế kỉ 18 đầu thế kỉ 19. Xã hội ấy cũng đã được nói đến  qua những tác phẩm cùng thời: Phủ Chúa Trịnh, Hoàng Lê nhất thống chí,  Cung oán ngâm… 
  
Phép đối xứng kết hợp với nghệ thuật tách từ, đảo từ là một sáng tạo của  Nguyễn Du. Đối xứng nhỏ nhất được thiết lập bằng cách tách hai từ ghép  để tạo thành một cụm từ mới, có tác dụng tăng thêm, cụ thể hóa hơn nét  nghĩa: tại lầu xanh, bọn khách làng chơi ra vào dập dìu, nhộn nhịp. Tiếp  theo là đối xứng trong từng câu thơ: Cuộc say đầy tháng/ trận cười suốt  đêm; Sớm đưa Tống Ngọc/ tối tìm Trường Khanh… kết hợp với những từ chỉ  số nhiều: đầy tháng, suốt đêm diễn tả cái xô bồ, gấp gáp của một cuộc  sống ăn chơi, nhốn nháo, dung tục. Thường thì người ta dùng từ “trận” để  nói về trận đánh, trận mắng chửi chứ không ai nói là “trận cười”. Bản  thân cách dùng từ này đã đủ cho thấy nỗi ê chề, sự ép buộc, đày đọa mà  Kiều phải chịu đựng. 
  
Nguyễn Du đã tái hiện cái hoàn cảnh của Thúy Kiều bằng những sự đối lập  nghiệt ngã: một bên là nước mắt Thúy Kiều – một bên là những cơn say,  trận cười triền miên. Do vậy ở bốn câu thơ đầu, mặc dù chưa được miêu tả  trực tiếp, người đọc vẫn thấy Kiều đang bị cuốn đi trong một cơn lốc vô  hình, bị buộc vào cảnh sống nhơ nhớp nơi nhà chứa. Hiện thực nghiệt ngã  mà nhân vật phải trải qua, hé mở thân phận bẽ bàng của người kỹ nữ.  Nguyễn Du đã “bọc lụa” cho cảnh sống ấy bằng một thứ ngôn ngữ ước lệ rất  tài tình: ước lệ theo thành ngữ dân gian, ước lệ theo điển tích làm cho  sự hồi tưởng kiếp sống đớn đau của Kiều trở nên tao nhã hơn. Bởi vì chỉ  có hồi tưởng mới diễn tả hết sức sống chân thật của nội tâm nhân vật,  mới thể hiện đúng nỗi đau, mới nổi bật được phẩm giá và sự chịu đựng  giày vò đáng thương của nhân vật. Đằng sau những câu thơ ấy là tấm lòng  cảm thông, trân trọng mà tác giả dành cho Thúy Kiều. 
  
Bốn câu thơ đầu đã đặt ra một tình thế của tâm trạng. Ở lầu xanh có  nhiều người đàn bà, có thể họ an tâm, yên phận và cam chịu với nghề  nghiệp để kiếm sống, trớ trêu thay Kiều lại là một nhân phẩm quá đỗi cao  đẹp, một tâm hồn trong trắng, một bông hoa từ cảnh sống “êm đềm trướng  rủ màn che” bỗng nhiên bị ném vào bùn nhơ, giữa cái xót xa của hoàn cảnh  là cái “giật mình” đầy nhân b 
(Các) nguồn 
“Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh 
Giật mình mình lại thương mình xót xa 
Khi sao phong gấm rủ là 
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường 
Mặt sao dày gió dạn sương 
Thân sao bướm chán ong chương bấy thân 
Mặc người mưa Sở mây Tần 
Những mình nào biết có xuân là gì” 
  
Bắt đầu từ cái “giật mình” đoạn thơ mở ra cả một bức tranh tâm cảnh – có  thể nói cách khác là bức chân dung tự họa tinh thần Thúy Kiều. Vẫn là  không gian lầu xanh, thời gian là lúc “tỉnh rượu, tàn canh” – đêm khuya  là thời gian của tâm trạng. Tại sao không phải là một thời điểm khác?  Bởi vì triền miên trong những “cơn say, trận cười”, những “bướm lả ong  lơi”, những khách làng chơi dập dìu tối ngày, chỉ đến khi tàn canh Kiều  mới có thời gian để sống với tâm trạng thực của mình. Thời điểm này có  lẽ là thời điểm dành riêng cho tâm trạng của người phụ nữ. Hồ Xuân Hương  cũng để cho nhân vật trữ tình của mình “tự tình” trong những khoảnh  khắc như thế: 
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn 
Trơ cái hồng nhan với nước non” 
Cái “giật mình” nói lên tất cả những nỗi niềm của Kiều: sự thảng thốt,  ngạc nhiên, bẽ bàng, xót xa cho thân phận của mình, là sự tự ý thức chua  chát về cảnh ngộ trớ trêu, nhục nhã trên cơ sở sự trỗi dậy của một nhân  cách đẹp. Nhịp điệu thơ biến đổi, đang từ 2/2/2 hoặc 4/4 chuyển sang  3/3 cân đối diễn tả bước đi của thời gian, đến câu bát, nhịp thơ lại đột  ngột thay đổi, phá cách 2/4/2 – một nhịp thơ thể hiện sự thảng thốt. 
  
“Giật mình mình lại thương mình xót xa” 
  
Câu thơ chứa đựng hai biến thái, hai nét tâm trạng tiêu biểu của Kiều  trong hoàn cảnh éo le của nàng. “Giật mình” thể hiện tâm trạng thảng  thốt, sự lặp lại 3 lần từ “mình” khiến âm điệu câu thơ trở nên nặng nề,  như tiếng nấc đan xen với tiếng thở dài, tiếng nấc nghẹn ngào, đau đớn.  “Giật mình” mới là ý thức ban đầu nhưng “thương mình”, “xót xa” thì lại  là sự ngẫm lại. Giật mình vì hiện tại nhục nhã, đớn đau, Kiều lần tưởng  về quá khứ, nhưng nếu như quá khứ chỉ được nhắc đến qua một câu thơ thì  lập tức hiện tại lại được nhấn mạnh qua nhiều câu thơ liên tiếp, hiện  tại vẫn cứ níu giữ, vẫn cứ bám riết một cách quyết liệt và ghê tởm.  “Thương mình” dường như là mạch cảm xúc xuyên suốt toàn bộ đoạn trích  (chọn làm tên đọan trích) ở đây đã được Nguyễn Du để cho nhân vật đau  đớn nhận ra. 
  
Nếu như trước kia trước mộ Đạm Tiên, Kiều vì thương cảm, thương người mà  khóc lên thì ở đây, trong chính tình cảnh trớ trêu này – sống đúng với  thân phận trước kia của Đạm Tiên, Kiều chỉ còn biết thương cho chính  mình và dường như cũng chỉ đủ sức để khóc thương cho chính số kiếp bèo  bọt của mình. Ngay cả cái cảm giác tự mình phải thương lấy chính mình đã  đủ làm nên một bi kịch. Cái “thương mình” này vừa thể hiện sự cô độc  đến tuyệt đối, vừa thể hiện sự tủi phận cùng cực của Kiều, vừa thể hiện ý  thức cá nhân mãnh liệt. Bản thân từ “mình” đã là một thứ ý thức cá nhân  được phát biểu rất rõ ràng. Trước Nguyễn Du, ít có người phát biểu ra  như thế. Hồ Xuân Hương từng để cho người phụ nữ bẽ bàng về thân phận  mình qua những hình tượng: trơ “cái hồng nhan”, “chiếc bách”, chém cha  “cái số hoa đào”… chứ chưa thể hiện trực tiếp như Nguyễn Du. 
  
Nhưng trớ trêu và xót xa thay, 3 lần “mình” mà vẫn cô đơn, vắng lặng  biết bao nhiêu. Đó chính là tiếng lòng Kiều phát ra rồi lại dội lại,  người nói cũng là người nghe trong cái âm hưởng tự thương thân xót xa,  nó nhói lên như một vết thương, một nỗi đau thường trực, cộng hưởng tạo  cho câu thơ một dư ba da diết. 
  
Rồi trong cái âm điệu thương thân kia là bao nhiêu hồi ức dội về, hồi ức tươi sáng va đập thực tại tăm tối đọa đày: 
  
Khi sao phong gấm rủ là 
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường 
Mặt sao dày gió dạn sương 
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân” 
  
Một loạt câu hỏi tu từ kết hợp với câu cảm, với những hình ảnh đối lập  diễn tả sự thảng thốt của Kiều về thực tại và số kiếp của mình. Tự Kiều  đến giờ vẫn không thể hiểu vì sao quá khứ và hiện tại lại thay đổi nhanh  như thế. Có một qui luật tâm lí là khi chán chường với hiện tại, người  ta thường chạy trốn vào quá khứ tươi đẹp, ở đây Kiều đã hồi tưởng về quá  khứ nhưng quá khứ ngắn ngủi ấy không đủ để cứu vớt nàng ra khỏi thực  tại đau buồn. Ngay kết cấu của các câu thơ đã thể hiện điều đó: cứ một  câu nói về quá khứ thì lại liền sau đó là ba câu tả thực tại phũ phàng. 
  
Sự đối lập gay gắt giữa quá khứ và hiện thực còn được Nguyễn Du cực tả  bằng một loạt các biện pháp nghệ thuật đặc sắc. Cụm từ “bướm chán ong  chường” (hô ứng với “bướm lả ong lơi” ở trên) và “dày gió dạn sương” là  hai sáng tạo về từ của Nguyễn Du: đảo trật tự và tách từ. Các đối xứng  trong từng cụm từ, từng câu là phép đối trong các câu thơ nối tiếp nhau:  Khi sao… Giờ sao… Mặt sao… Thân sao… Sự đối xứng này đào sâu thêm nỗi  xót xa, nó mở rộng thêm sự đối xứng “mình” và “mình” tạo nên sự đối lập  giữa hai cực cuộc đời: sướng và khổ, bình yên và dập vùi sóng gió. Hai  từ “khi” và “giờ” là hai khoảng thời gian đối xứng mà ở đó, Kiều càng  tiếc cái xưa kia chừng nào thì lại càng thấy cái nay thê thảm chừng ấy.  Những từ ngữ tương phản gay gắt: phong gấm rủ là/tan tác; dày gió/dạn  sương; bướm chán/ong chường… và cách so sánh: “như hoa giữa đường” gợi  lên sự đối lập tuyệt đối giữa quá khứ và hiện thực, giữa cá nhân và hoàn  cảnh. 
  
Nếu “bướm lả ong lơi” là tả cái khách quan bên ngoài - chỉ bọn đàn ông  lắm tiền háo sắc thì “Bướm chán ong chường” ở đây lại chỉ tâm trạng chán  chường, mỏi mệt, ghê sợ chính bản thân mình của nhân vật khi bị đẩy vào  hoàn cảnh sống nhơ nhớp. Nhưng có lẽ điều mà Nguyễn Du muốn nhấn mạnh  hơn ở trong những câu thơ này không phải là sự tố cáo và lột trần trực  tiếp cái xã hội thối nát mà chính là sự đề cao giá trị con người, đề cao  khát khao chính đáng về tình yêu và hạnh phúc. Từ “xuân” do vậy, không  chỉ mùa xuân, tuổi trẻ, mà chỉ hạnh phúc lứa đôi, tình yêu. Trong cuộc  sống “làm vợ khắp người ta”, Kiều chỉ thấy nhục nhã, trơ lì và vô cảm. 
  
Cả một trường tự vựng nói về cảnh lầu xanh, bên cạnh đó lại là cả một  trường từ vựng nói về tâm trạng, nỗi đau của Kiều – bản thân câu chữ đã  mang đầy ý nghĩa về một sự đối lập, sự mâu thuẫn giằng xé của Kiều khi  tiếng nói về nhân phẩm đang gào thét giữa thực tại. 
Đoạn thơ là lời than hay là câu hỏi đối thoại nội tâm của Thúy Kiều? Là  lời than hay câu hỏi thì cũng chỉ gợi lên ở cái ấn tượng về sự cô độc  tột cùng. Đoạn thơ đậm chất ngôn ngữ nửa trực tiếp, là lời tác giả thể  hiện giọng điệu, suy nghĩ của nhân vật, như lời độc thoại nội tâm. Điều  đó cho thấy nhân vật ý thức sâu sắc về cuộc sống tủi nhục, đau khổ của  mình. Đó cũng chính là sự tự ý thức sâu sắc về phẩm giá, nhân cách bản  thân, về quyền sống bản thân, khát khao muốn thoát khỏi cuộc đời kĩ nữ. 
  
Nếu như Kiều trong tác phẩm của Thanh Tâm tài nhân là người nhập tâm rất  tốt các bài học tiếp khách của Tú Bà, với đầy đủ các ngón nghề thì Kiều  của Nguyễn Du: ghê sợ chính mình. Đó cũng là chỗ thể hiện tinh thần  nhân đạo mới mẻ của Nguyễn Du: xót xa cho nhân vật, ông ném ra một tiếng  nói gay gắt: tài sắc đã trở thành một món hàng, một phương tiện giải  trí của bọn lắm tiền háo sắc, lầu xanh là nơi những con người như Kiều  bị đày đọa. 
Bị chi phối bởi thuyết “tài mệnh tương đố” cho nên Kiều của Nguyễn Du  tuy suốt đời ý thức về quyền sống và hạnh phúc nhưng chưa bao giờ được  hưởng chúng một cách trọn vẹn. Tuy nhiên, lên tiếng khẳng định và để cho  nhân vật ý thức về quyền sống của con người, đó đã là một đóng góp của  Nguyễn Du về tư tưởng trong văn học lúc bấy giờ. 
 
 |  
  
 
		
		
		
 
  
 | 
 |   
 
    BÁO LỖI BÀI VIẾT
 Hãy gửi cốc trà đá cho TTB tài khoản ngân hàng phía dưới hoặc paypal : 
    paypalme/tuthienbao
 Giúp có kinh phí duy trì Free  
 
 
TÌM BÀI VIẾT KHÁC SEARCH TRÊN THANH TìM KIẾM PHÍA TRÊN WEB 
 
 
		
		
		
			
			
			
			
				 
			
			
			
			
			
			
			
				
			
			
			
		 
	
	 | 
 
 
 
 
	 
	
		
	
	
		
 
  	 	 
 
	
ADS
	
	
 
 
	
	
Miễn trừ trách nhiệm.NẾU CÓ ĐIỀU KIỆN HÃY MUA SÁCH ỦNG HỘ NHÀ XUẤT BẢN 
© Tuthienbao.com- TTB chúng tôi không cung cấp chức năng đăng ký thành viên để viết bài hay bình luận - Nếu có khiếu nại chung tôi sẽ xử lý.Mọi dữ liệu về diễn đàn trên website này đều được chúng tôi và các thành viên tham gia website tổng hợp từ  tất cả các trang website .Do đó, chúng tôi không chịu trách nhiệm về những dữ liệu được chia sẻ tại đây.Truyện Nội Dung được chia sẻ chỉ với mục đích giải trí, phi lợi nhuận. Mọi bản quyền thuộc về tác giả và nhà xuất bản gốc.Nếu có yêu cầu gỡ bỏ, xin liên hệ qua email
  
truyen tranh,
truyen tranh 8,truyen tranh hay,
truyen tranh online,
ebook,ebook ngon tinh,
van hoc lop 5,van hoc lop 6,van hoc lop 7,van hoc lop 8,van hoc lop 9,van hoc lop 10,van hoc lop 11,van hoc lop 12,
 
     | 
  
 
 
Powered by: vBulletin v3.8.2
 Copyright ©2000-2025, Jelsoft Enterprises Ltd.
 
	
	
		
	
	
 
      |