Tìm kiếm chủ đề bài viết ở đây trước khi hỏi TTB -Tìm bằng tiếng việt có dấu càng chính xác-Ví Dụ:Đánh vào Hwang mi ri để tìm truyện tác giả này
 
Hãy ủng hộ mua bất kỳ sản phẩm trên shopee.vn truy cập Vào Đây tìm sản phẩm rồi mua, mỗi lượt mua đều giúp duy trì website hoạt động miễn phí
KHÔNG XEM ĐƯỢC ẢNH TRUY CẬP ĐỔI DNS CLICK VÀO ĐÂY 
 
   	  	 
 
 
		 
	 
 
  
	
	
		
	
	
	| 
		
		 
			
				05-12-2014, 08:13 PM
			
			
			
		 
	 | 
 
	
		
        
        
		
		        
 
                                |   	
                              
				
 				 Đầy Tớ Của Nhân Dân 
	
                 
 Facebook: https://www.facebook.com/tuthienbaocom 
		
 | 	
	
			
			 | 
	
			
	
                              
					  
					
					
					
				
			 | 
		  |  
		 
		
	 | 
 
	
	
		
	
		
		
			
			
				 
				Phân tích con người Nguyễn Khuyến qua bài thơ Vịnh mùa thu
			 
			 
			
		
		
 
 
 
 
 
 
Xưa nay, trong văn chương Đông Tây kim cổ, có rất nhiều thi sĩ viết  về  đề tài mùa thu và nhiều bài thơ thu nổi tiếng sống mãi với thời  gian.  Nguyễn Khuyến cũng đóng góp vào nền thi ca nước Việt một chùm ba  bài thơ  tả mùa thu mang đậm nét đặc trưng của đồng bằng Bắc Bộ, trong  đó bài  Vịnh mùa thu được lưu truyền rộng rãi nhất bởi nó thể hiện khá  đầy đủ và  sinh động tâm trạng của tác giả. 
  
   
  Nguyễn Khuyến sáng tác bài thơ này sau khi ông đã cáo quan về ở ẩn  tại  quê nhà. Quê hương ông là xứ Vườn Bùi thuộc huyện Bình Lục, tỉnh Hà  Nam,  một vùng đồng chiêm trũng đói nghèo bao thuở. Đáng lưu ý là các  chi  tiết trong bài thơ đều rút ra từ cảnh vật thân thuộc quanh ông.  Đường  làng nhỏ hẹp uốn lượn giữa hai bờ tre trúc và vô số ao chuôm.  Những mái  rạ đơn sơ cùng những cây rơm cũ kĩ thấp thoáng trong vườn cây  trái. 
   
   
  Hai câu đề chấm phá hai nét phong cảnh đơn sơ, thanh thoát, trong  đó mọi  chi tiết, đường nét, sắc màu đều rất hài hòa, nhịp nhàng, phù  hợp với  tâm hồn tác giả. Nhà thơ mới nói đến trời thu nhưng ta đã thấy  cả hồn  thu trong đó: 
   
 Trời thu xanh ngắt mấy từng cao, 
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu. 
   
 Xanh ngắt là xanh thăm thẳm tưởng chừng không giới hạn; mấy từng  cao là  dường như nhiều lớp, nhiều tầng chồng lên nhau, gợi cảm giác cao  vời  vợi. Trên cái nền là bầu trời bát ngát xanh, nổi bật lên hình ảnh  thanh  tú, mềm mại của cần trúc, tức là cây trúc non chưa trổ lá, cong  cong như  chiếc cần câu đang đung đưa khe khẽ trước làn gió hắt hiu. Gió  hắt hiu  là gió rất nhẹ và như chất chứa đầy tâm trạng bên trong. Sự  lay động nhẹ  nhàng của cần trúc càng tôn thêm vẻ lặng thinh, sâu thẳm  của bầu trời.  Bầu trời lại như dồn hết cái sâu lắng của mình vào bên  trong cần trúc,  để cho nó chỉ khe khẽ rung rinh. Đó là nét động và nét  tĩnh của cảnh thu  chốn đổng quê, đồng thời cũng là những rung động thực  sự trong hồn thơ  Nguyễn Khuyến. Giữa cảnh vật và con người nhà thơ có  sự đồng điệu, cảm  thông tuy thầm lặng nhưng sâu sắc lạ thường. 
   
 Ở hai câu thực, ngọn bút vẽ vời của Nguyễn Khuyến chuyển từ cao  xuống  thấp, từ bầu trời cao xa xuống mặt đất gần gũi ngay trước mắt: 
   
 Nước biếc trông như tầng khói phủ, 
Song thưa để mặc bóng trăng vào. 
   
 Nước biếc là màu nước đặc trưng của mùa thu. Khi khí trời bắt đầu  se  lạnh, vào lúc sáng sớm và chiều tối, trên mặt ao hồ thường có một  lớp  sương mỏng màu tím nhạt, trông xa như khói phủ. Khung cảnh bình  thường  ấy qua đôi mắt u buồn của thi nhân đã trở thành một dáng thu  ngâm vịnh.  Tầng khói phủ khác làn khói phủ bởi sương đã trở nên dày  hơn, nhiều lớp  hơn, có chiều cao, có độ sâu và như chất chứa một điều  gì đó bên trong  nên thành huyền ảo, mông lung. Đó là dáng thu dưới mặt  đất, sau dáng thu  trên bầu trời. 
   
 Hình ảnh Song thưa để mặc bóng trăng vào có ý cởi mở. Bóng trăng  vào qua  song thưa để ngỏ thì bóng trăng cũng trở nên mênh mông hơn,  lặng lẽ  hơn. Nếu ở câu trên, trạng thái của cảnh vật có chiều cao, có  độ sâu thì  ở câu này cảnh vật lại có bề rộng, mặc dù bị giới hạn bởi  khung cửa sổ  song thưa nhưng vẫn mênh mông ý nghĩa bên trong âm điệu và  từ ngữ. Nhưng  dù ở trạng thái nào đi nữa thì cảnh vật cũng vẫn chất  chứa tâm trạng  buồn thương. 
Tâm trạng chủ đạo ấy chi phối cách nhìn, cách nghĩ của nhà thơ trong hai câu luận: 
   
 Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái, 
Một tiếng trên không ngỗng nước nào. 
   
 Sau khi nhìn mặt nước khỏi phủ, ngắm ánh trăng tràn qua song thưa,  nhà  thơ trông ra bờ giậu ngoài sân. Ở đó nở mấy chùm hoa, có lẽ là hoa  cúc.  Rõ ràng là hoa năm nay mà cụ Tam Nguyên lại nghĩ là hoa năm ngoái.  Trong  đêm khuya, từ trên cao văng vẳng vài tiếng chim, khiến nhà thơ  bâng  khuâng tự hỏi không biết là tiếng ngỗng nước nào? Đó chính là biểu  hiện  của nỗi niềm hoài cổ khôn khuây của một người luôn canh cánh bên  lòng  nỗi niềm dân nước. Điều gì đang xảy ra trong sâu thẳm tâm hồn thi  sĩ ?  Con người đang sống trong thực tại mà như lùi về quá khứ, hay bóng  dáng  quá khứ luôn hiển hiện trong tiềm thức nhà thơ?! 
   
 Nếu như trong bốn câu thơ trên, cảnh vật hài hòa, giao cảm với nhau  thì  đến đây, con người hòa hợp với cảnh vật trong một tâm trạng u uất.  cảnh  vật thể hiện tâm tư con người và tâm tư con người thể hiện qua  cách cảm,  cách nhìn cảnh vật. Như vậy là cảnh vật được miêu tả qua đôi  mắt và  trái tim rung cảm của nhà thơ. Mùa thu tới, nhà thơ nhìn hoa nở  trước  sân, nghe tiếng chim kêu trên trời trong đêm khuya thanh vắng mà  trỗi  dậy cảm xúc xót xa, ngậm ngùi đến não lòng. Chiều sâu của tâm hồn  thi sĩ  lắng đọng vào chiều sâu của mỗi câu thơ là vậy. 
   
 Hai câu kết cô đúc tâm trạng chủ đạo của nhà thơ. Trước cảnh thu và  hồn  thu như thế, thi hứng dạt dào khiến nhà thơ toan cất bút; nhưng  nghĩ đi  nghĩ lại, bỗng nhiên thấy thẹn với ông Đào nên đành thôi: 
   
 Nhân hứng cũng vừa toan cất bút, 
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào. 
   
 Cụ Tam Nguyên thẹn về nỗi gì vậy? Thẹn vì tài thơ thua kém hay thẹn  vì  mình chưa có được nhân cách cứng cỏi như Đào Tiềm – một vị quan có  khí  tiết cương trực và cũng là một thi sĩ nổi tiếng đời Đường bên Trung   Quốc. 
   
 Lôgíc của bài thơ là từ cảnh đến tình, từ tình đến người. Lời thơ  trong  câu cuối cùng có cái gì đó lửng lơ mà kín đáo, do đó càng làm  tăng thêm  chất suy tư vốn đã trĩu nặng của bài thơ. 
   
 Nguyễn Khuyến miêu tả cảnh thu ở quê hương mình, từ màu trời, ngọn  trúc,  mặt nước, ánh trăng đến chùm hoa trước giậu, tiếng ngỗng trên  không… để  dẫn đến cảm xúc đầy suy tư, trăn trở ẩn chứa trong cảnh vật.  Thông qua  đó, ông gửi gắm tâm trạng xót xa, nuối tiếc trước cảnh đất  nước rơi vào  tay giặc ngoại xâm, quá khứ tốt đẹp không còn nữa mà mình  thì lực bất  tòng tâm. 
   
 Thu vịnh là một bài thơ rất hay, góp phần khẳng định tình yêu thiên   nhiên, quê hương, đất nước đằm thắm trong thơ Nguyễn Khuyến. Trình độ   nghệ thuật của bài thơ đã đạt tới mức tinh tế, điêu luyện mà vẫn dung   dị, tự nhiên, không mấy ai sánh được. 
 
 |  
  
 
		
		
		
 
  
 | 
 |   
 
    BÁO LỖI BÀI VIẾT
 Hãy gửi cốc trà đá cho TTB tài khoản ngân hàng phía dưới hoặc paypal : 
    paypalme/tuthienbao
 Giúp có kinh phí duy trì Free  
 
 
TÌM BÀI VIẾT KHÁC SEARCH TRÊN THANH TìM KIẾM PHÍA TRÊN WEB 
 
 
		
		
		
			
			
			
			
				 
			
			
			
			
			
			
			
				
			
			
			
		 
	
	 | 
 
 
 
 
	 
	
		
	
	
		
 
  	 	 
 
	
ADS
	
	
 
 
	
	
Miễn trừ trách nhiệm.NẾU CÓ ĐIỀU KIỆN HÃY MUA SÁCH ỦNG HỘ NHÀ XUẤT BẢN 
© Tuthienbao.com- TTB chúng tôi không cung cấp chức năng đăng ký thành viên để viết bài hay bình luận - Nếu có khiếu nại chung tôi sẽ xử lý.Mọi dữ liệu về diễn đàn trên website này đều được chúng tôi và các thành viên tham gia website tổng hợp từ  tất cả các trang website .Do đó, chúng tôi không chịu trách nhiệm về những dữ liệu được chia sẻ tại đây.Truyện Nội Dung được chia sẻ chỉ với mục đích giải trí, phi lợi nhuận. Mọi bản quyền thuộc về tác giả và nhà xuất bản gốc.Nếu có yêu cầu gỡ bỏ, xin liên hệ qua email
  
truyen tranh,
truyen tranh 8,truyen tranh hay,
truyen tranh online,
ebook,ebook ngon tinh,
van hoc lop 5,van hoc lop 6,van hoc lop 7,van hoc lop 8,van hoc lop 9,van hoc lop 10,van hoc lop 11,van hoc lop 12,
 
     | 
  
 
 
Powered by: vBulletin v3.8.2
 Copyright ©2000-2025, Jelsoft Enterprises Ltd.
 
	
	
		
	
	
 
      |