Xuân Diệu (1918 -1985) tên thật là Ngô Xuân Diệu, nhà  thơ lãng mạn nổi  tiếng của trào lưu Thơ mới trước Cách mạng tháng Tám  năm 1945. Thi sĩ đã  mang đến cho thơ ca tiếng Việt một vẻ đẹp thanh  xuân bằng những sáng  tạo táo bạo về hình ảnh, từ ngữ và nhịp điệu thơ.  Xuân Diệu được nhà phê  bình nghiên cứu văn học hoài Thanh nhận xét là  mới nhất trong các nhà  thơ mới. Có thể coi ba bài thơ Vội vàng, Đây mùa  thu tới và Thơ duyên  tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật thơ của Xuân  Diệu.
  Bài thơ Vội vàng là tuyên ngôn về lẽ sống của Xuân  Diệu thời trai trẻ.  Niềm say mê thiên nhiên, say mê cuộc sống thể hiện  tập trung nhất, đầy  đủ nhất ở đây. Theo quan niệm của thi sĩ thì cuộc  sống là tất cả những  lạc thú vật chất và tinh thần cùng với những gì  trần tục và thanh cao  của nó. Đọc bài thơ này, người đọc cảm thấy như  thi sĩ đang trải lòng ra  mà viết, mà bày tỏ cho hết tình yêu chân thành  đối với cuộc đời.
Mở đầu bài thơ là bốn câu ngũ ngôn:
  Tôi muốn tắt nắng đi 
Cho màu đừng nhạt mất 
Tôi muốn buộc gió lại 
Cho hương đừng bay đi.
  Nhịp thơ 2/3 ngắn, âm hưởng da diết thể hiện cảm xúc  mãnh liệt và phản  ánh ý tưởng táo bạo đến dị thường của thi nhân là  muốn đoạt quyền Tạo  hóa. 
Điệp từ Tôi muốn đặt ở vị trí đầu câu có tác dụng khẳng định và nhấn   mạnh “cái tôi” của thi sĩ – một điều khá mới trong thơ ca đương thời.   Cái ước muốn khác lạ chưa từng thấy đó chính là cách bày tỏ tình yêu   bồng bột vô bờ của nhà thơ đối với con người và cuộc sống, với thế giới   thắm sắc đượm hương đang trải rộng trước mắt. Dường như Xuân Diệu đã  chỉ  ra quy luật nghiệt ngã của Tạo hóa để rồi dần dần lí giải nguyên  nhân  lẽ sống vội vàng của mình.
Thiên nhiên được Xuân Diệu cảm nhận theo một cách rất riêng. Với nhà thơ   thì đây là thiên đường trên mặt đất. Cái thiên đường đầy hương sắc đó   hiện ra trong bài thơ như một khu vườn tình ái của vạn vật buổi đương   thì vô cùng quyến rũ. Xuân Diệu cảm nhận, thưởng thức vẻ đẹp thiên nhiên   và cũng là tình tự với thiên nhiên. Xung quanh nhà thơ, cảnh vật tưng   bừng, rạo rực sức sống khiến không ai có thể thờ ơ:
   Của ong bướm này đây tuần tháng mật,
Và đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si,
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,
Mỗi sáng sớm thần vui hằng gõ cửa.
   
 Tình và cảnh của đoạn thơ này được tác giả miêu tả  bằng những hình ảnh  chọn lọc, tinh tế: tuần tháng mật của ong bướm dập  dờn trên muôn hoa nở  rộ khắp đồng nội xanh rì; chồi non, lộc nõn trên  cành tơ phơ phất trước  ngọn gió mát lành; chim yến chim anh cất lên  khúc tình si rộn rã để giao  duyên; ánh sáng rung động trên hàng mi đang  chớp nhẹ… Nhạc điệu rộn  ràng giống như tiếng reo vui hồn nhiên, mừng  rỡ của đứa trẻ thơ ngây lạc  vào khu vườn mùa xuân đầy hương sắc, tưng  bừng bản nhạc đủ mọi thanh  âm. Đối với Xuân Diệu thì mỗi ngày là một  niềm vui mới và cuộc đời là  một chuỗi vui vô tận: Mỗi sáng sớm thần vui  hằng gõ cửa.
  Điệp từ này đây lặp lại tới năm lần, như muốn nhấn  mạnh từng nét đẹp của  vườn xuân, như giới thiệu sự phong phú bất tận  của thiên nhiên với một  niềm hứng khởi lạ thường, để rồi đi đến một so  sánh thật bất ngờ và thú  vị: Tháng giêng ngon như một cặp môi gần. Xuân  Diệu có lối diễn tả tinh  tế bằng sự chuyển đổi cảm giác. Thi sĩ không  dùng từ đẹp mà dùng từ ngon  để đặc tả sức sống non tơ và vẻ đẹp mơn mởn  vô cùng quyến rũ của mùa  xuân. Là thi sĩ của tình yêu nên Xuân Diệu  nhận ra giữa vẻ đẹp thiên  nhiên và vẻ đẹp thiếu nữ có những nét tương  đồng.
  Hai khổ thơ liên kết chặt chẽ với nhau về mặt lôgic.  Thi sĩ muốn tắt  nắng đi, muốn buộc gió lại để lưu giữ mãi mãi hương sắc  của vườn xuân  trần thế. Nhưng tiếc thay, vẻ đẹp ấy chỉ rực rỡ lúc xuân  thì, mà xuân  thì lại vô cùng ngắn ngủi. Thi sĩ đang hân hoan đón nhận  vẻ đẹp tuyệt  vời mà Tạo hóa ban phát cho muôn loài thì bỗng chốc niềm  vui tan biến,  thay vào đó là nỗi ngậm ngùi trước hiện thực phũ phàng:
  Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già.
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất;
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian.
  Theo quan niệm của nhà thơ thì mùa xuân, tuổi trẻ và  tình yêu là những  thứ đẹp nhất, “là những phần ngon nhất của cuộc đời”.  Thiên nhiên đẹp  nhất lúc xuân sang, đời người đẹp nhất tuổi xuân thì,  tình yêu đẹp nhất  khi đi đôi với tuổi trẻ. Nhưng trớ trêu thay. Tạo hóa  sáng tạo ra cái  đẹp và cũng lạnh lùng hủy diệt cái đẹp. Mùa xuân và  tuổi trẻ đều quá  ngắn ngủi. Thời gian sẽ cuốn trôi hết thảy, cho nên  con người phải mau  chóng tận hưởng sắc màu cùng hương thơm mật ngọt của  đời.
  Xuân Diệu đồng nhất mùa xuân với tuổi trẻ, tình yêu và  cảm thấy đời  người quá ngắn ngủi trước thời gian, không gian vĩnh cửu.  Cho nên thi sĩ  ngậm ngùi, tiếc nuối:
  Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời.
  Nhịp thơ ở đoạn này chậm hẳn: 1 / 2 /1/2/2 ; 1 / 2 / 2/1/2, chất chứa suy nghĩ và cảm xúc khắc khoải lắng sâu.
  Tâm trạng phức tạp ấy chi phối cách nhìn, cách nghĩ  nên giữa tươi xanh  thi sĩ đã thấy màu héo úa, giữa hiện tại đã thấp  thoáng quá khứ, giữa  sum họp đã có mầm mống chia li:
  Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi,
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt…
Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ tàn phai sắp sửa ?
  Nhà thơ cảm nhận sự trôi chảy của thời gian bằng tất  cả các giác quan.  Thời gian được cảm nhận bằng khứu giác, vị giác: mùi  tháng năm, vị chia  phôi… Mỗi khoảnh khắc thời gian đang lìa bỏ hiện tại  để trở thành quá  khứ.
  Không thể tắt nắng đi, buộc gió lại, cũng không thể  níu kéo thời gian  nên thi sĩ chỉ có một cách thực tế nhất là chạy đua  với thời gian, phải  tranh thủ, vội vàng mà sống:
  Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…
Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm.
  Câu thơ đầy tiếc nuối và tuyệt vọng đã khép lại phần  lí giải cho lẽ sống  vội vàng của Xuân Diệu và mở ra phần biểu hiện bằng  hành động:
  Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều;
Và non nước, và cây, và cỏ rạng.
  Sự kết hợp tài tình giữa hình ảnh, âm thanh và nhịp  điệu khiến đoạn thơ  này đã đặc tả được tình yêu cuộc sống mãnh liệt của  thi sĩ. Cảm hứng thơ  giống như những đợt sóng đại dương mỗi lúc mỗi  dâng cao. Điệp ngữ Ta  muốn khẳng định khát khao cháy bỏng muốn ôm trọn  cả vũ trụ trong vòng  tay âu yếm muôn đời. Mỗi lần điệp ngữ Ta muốn xuất  hiện là lại đi kèm  với một động thái yêu đương mạnh mẽ, đắm say: ôm,  riết, say, thâu và  cắn. (ôm cả sự sống…, riết mây đưa và gió lượn…, say  cánh bướm với tình  yêu…, thâu trong một cái hôn nhiều…).
  Cảm xúc dâng cao tới tột đỉnh, thi sĩ muốn được thưởng  thức đầy đủ, trọn  vẹn tất cả sắc màu, hương thơm, vẻ đẹp của vườn đời  đầy hoa thơm trái  ngọt:
Cho chuếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
  Cho no nê thanh sắc của thời tươi,
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
  Phải nói rằng cách thể hiện tâm trạng của Xuân Diệu ở  bài thơ Vội vàng  là rất mới, rất lạ, rất “Xuân Diệu”, xưa nay chưa từng  có. Cách dùng từ  ngữ và hình ảnh thật táo bạo; nhịp điệu thơ thay đổi  linh hoạt, phù hợp  với việc diễn đạt cảm xúc trong từng đoạn. Chỉ có  như thế tác giả mới  bày tỏ được mức độ nồng nàn, say đắm của tình yêu  thương cuộc đời, yêu  thương con người.
  Bao trùm lên bài thơ Đây mùa thu tới là một nỗi buồn  muôn thuở và cũng  là nỗi buồn thời đại, thể hiện tâm trạng không phải  chỉ của riêng thi sĩ  mà là của cả thế hệ thanh niên trí thức thời đó  trong tình cảnh nước  nhà nô lệ. Nhịp điệu bài thơ chậm rãi, âm hưởng da  diết và sâu lắng góp  phần thể hiện thành công cảm xúc chủ đạo của bài  thơ.
  Sau khi bộc lộ cảm nhận của mình trước cảnh vật mùa  thu từ gần đến xa,  từ cái hiện đến cái ẩn, thi sĩ đi sâu vào thể hiện  tâm tư con người, từ  con người ngoại giới đến con người bên trong. Tất  cả đều nhằm phản ánh  nỗi buồn vừa man mác vừa thấm thía, vừa mênh mông  vừa sâu lắng, trong  cái thế chung của sự sống bên ngoài như nhạt phai,  mất mát nhưng bên  trong lại như chất chứa một sự vươn tới, một ước mong  mơ hồ mà tha  thiết.
Xuân Diệu nhìn cảnh vật bằng đôi mắt u sầu nên thấy đâu đâu cũng nhuốm vẻ buồn thương:
  Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang,
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng:
Đây mùa thu tới – mùa thu tới,
Với áo mơ phai dệt lá vàng.
  Xưa nay, các nhà thơ tả mùa thu đến thường sử dụng  những hình ảnh ước lệ  như lá ngô đồng rụng, sắc đỏ lá phong, làn hương  cốm mới, những thoáng  heo may… Xuân Diệu cũng lặp lại, không có gì mới.  Mới chăng chính là ở  cách diễn đạt. Thi sĩ tư duy bằng liên tưởng, ấn  tượng, cảm giác, âm  thanh và nhịp điệu. Biến cái trừu tượng thành cụ  thể, nối dài cái cụ thể  bằng cái trừu tượng, nội tâm hóa ngoại giới và  ngoại giới hóa nội tâm.  Thi pháp lãng mạn độc đáo ấy đã làm tươi mới  những thi liệu tưởng như đã  cũ.
  Nhà thơ báo thu sang bằng dáng buồn của rặng liễu.  Hình ảnh cây liễu  thướt tha rủ bóng bên hồ thường xuất hiện trong thơ  Đường, thơ Tống.  Cũng vẫn là cây liễu nhưng Xuân Diệu đã sáng tạo nên  một hình ảnh đẹp và  buồn. Cây liễu buổi đầu thu mang dáng vẻ u sầu của  người góa phụ trẻ,  tâm trạng đang trĩu nặng đau thương. Cành liễu dưới  mưa rủ xuống như làn  tóc xõa. Mưa rơi trên lá như trăm nghìn giọt lệ  đang tuôn. Liễu cũng  giống như người, đang chất chứa trong lòng mối sầu  vạn cổ. Trước Xuân  Diệu, trong thơ ca chưa có một dáng liễu nào buồn  đến não lòng như thế!
  Tiếp đến là tiếng reo thầm trong tâm tưởng. Nhà thơ  như bừng tỉnh nhận  ra rằng mùa thu đã trở về với lòng thu đang ngóng  đợi. Mùa thu tới lặp  lại hai lần trong câu thơ tạo nên một sự kiện bất  ngờ cần thông báo.  Nàng thu diễm kiều của Tạo hóa đã đến với thi nhân  trong bộ xiêm y tha  thướt dệt bằng những chiếc lá vàng màu mơ phai  huyền ảo. Tưởng chừng như  thi sĩ đang dang rộng vòng tay đón nhận mùa  thu như đón nhận người bạn  tri kỉ tri âm sau bao ngày xa cách.
  Mùa thu đã mang hồn người và tất cả những gì của nó  đều sống kiếp người  thu. Mùa thu và tâm hồn tác giả có chỗ nào trùng  hợp, gần gũi hay không  thì chưa rõ, nhưng dùng hình ảnh và cách nói như  trên về mùa thu là rất  mới rất lạ. Trong cảm nhận của thi sĩ, thiên  nhiên cũng giống như một  giai nhân. Mùa xuân là mùa đẹp nhất. Qua hạ  vào thu, thiên nhiên đã  nhuốm vẻ tàn phai nhưng vẫn đẹp, vẫn quyến rũ  hồn người.
Khổ thơ thứ hai thể hiện một tâm hồn nhạy cảm trước những chuyển biến tinh vi của cảnh vật:
  Hơn một loài hoa đã rụng cành,
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh.
  Cách diễn đạt của Xuân Diệu xưa nay chưa từng có nên  bị một số người chê  là “Tây quá”. Tuy vậy, khả năng gợi tả, gợi cảm của  những hình ảnh trên  lại rất lớn. Nếu sắc lá xanh là của mùa xuân, mùa  hạ thì sắc lá vàng,  lá đỏ là của mùa thu. Mùa thu tới, màu đỏ cứ lấn  dần màu xanh. Màu đỏ  lan tới đâu, màu xanh mỏng dần tới đó. Sắc đỏ rũa  màu xanh là vậy. Dường  như thi sĩ cảm nhận được từng bước đi âm thầm  của mùa thu trên sự đổi  thay sắc màu của lá.
  Hai câu thơ sau xứng đáng là tuyệt bút:
Những luồng run rẩy rung rinh lá…
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh.
  Ở đầu đoạn thơ là hình ảnh hoa rụng, lá phai; đến cuối  đoạn là hình ảnh  các nhánh cây trơ trụi, khẳng khiu in trên nền trời  thu. Câu thơ bảy chữ  thì có tới sáu chữ gợi sự tàn tạ: nhánh, khô gầy,  xương, mỏng manh.  Xuân Diệu đã thể hiện bút lực tài hoa của mình trong  việc sử dụng hình  ảnh và ngôn ngữ đầy sáng tạo.
  Sâu xa và tinh vi hơn nhiều là khả năng cảm nhận của  trái tim và trí tuệ  của thi sĩ. Nhà phê bình nghiên cứu văn học Hoài  Thanh nhận xét: “Trong  cảnh mùa thu rất quen thuộc với thi nhân Việt  Nam, chỉ Xuân Diệu mới để  ý đến Những luồng run rẩy rung rinh lá…”. Ta  có thể hiểu là gió thổi  làm lá rung rinh, nhưng ý thơ chắc chắn không  dừng ở đó. Ai biết lá rung  rinh vì gió hay vì lạnh? Những thân cành  mảnh mai gầy guộc đang run rẩy  vì cái lạnh của gió thu. 
Đoạn thơ tiếp theo với nhịp 2 /2/1 / 2 và những hình ảnh tiêu biểu cho mùa thu cũng đầy cảm giác và ấn tượng:
  Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ,
Non xa khởi sự nhạt sương mờ…
Đã nghe rét mướt luồn trong gió,
Đã vắng người sang những chuyến đò.
  Trăng tự ngẩn ngơ như vừa mất mát một cái gì đó, nhớ  mong một cái gì đó.  Chưa thật buồn mà không còn vui, đó là tâm sự bí ẩn  của nàng trăng. Còn  núi cũng chẳng còn màu xanh biếc mà đã nhạt nhòa:  Non xa khởi sự nhạt  sương mờ. vẻ bên ngoài thì lạnh lẽo, còn bên trong,  ai biết tình núi ra  sao?
Xuân Diệu thấu hiểu căn nguyên nỗi buồn của mình. Hình như nó đến từ trời đất rồi thấm vào hồn người:
  Mây vẩn từng không chim bay đi,
Khí trời u uất hận chia li.
Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói,
Tựa cửa nhìn xa, nghĩ ngợi gì.
  Như vậy là mùa thu bắt đầu bằng hình ảnh Rặng liễu đìu  hiu đứng chịu  tang và kết thúc bằng hình ảnh ít nhiều thiếu nữ buồn  không nói. Cái  dáng vẻ lặng im tựa cửa tưởng như rất tĩnh ấy lại chứa  chất những xôn  xao thấm thía nhất của hồn thu.
  Thơ duyên là bài thơ tình hồn nhiên, trong sáng, thể  hiện mối giao cảm  tuyệt vời giữa thiên nhiên với thiên nhiên, giữa  thiên nhiên với con  người và giữa con người với con người trong một  buổi chiểu thu tuyệt  đẹp.
  Bài thơ mở đầu bằng những hình ảnh lung linh, huyền ảo:
  Chiều mộng hòa thơ trên nhành duyên,
Cây me ríu rít cặp chim chuyền.
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá,
Thu đến nơi nơi động tiếng huyền.
  Dưới trời thu hiện ra một khu vườn tình ái đầy âm  thanh và ánh sáng,  trong đó vạn vật đang rạo rực đắm say trong cuộc  giao duyên. Xuân Diệu  không nhìn cảnh vật theo công thức có sẵn trong  thơ cổ điển mà thi sĩ  cảm nhận theo cách rất riêng, rất mới của mình để  rồi phát hiện ra những  cái hay, cái đẹp của thiên nhiên trong một  chiều thu êm ái, dịu dàng,  cảnh vật như có tình, có duyên, gắn bó hòa  hợp với nhau. Chiều mộng với  khói sương bảng lảng như hòa thơ trên  những nhánh duyên đang đong đưa  trước cơn gió nhẹ. Trên cây me, cặp  chim chuyền cành ríu rít hót lên  những tiếng yêu thương, quấn quýt. Đó  là tiếng lòng của đôi uyên ương  hòa thành nhạc, thành thơ. Từ trên cao,  ánh trời chiếu qua vòm lá, tạo  thành màu xanh như ngọc. Câu thơ: Đổ  trời xanh ngọc qua muôn lá giàu  chất tạo hình và thể hiện thi hứng dạt  dào của thi sĩ trước thiên nhiên.  Cả không gian như rộn rã tiếng huyền  (tiếng đàn) du dương, trầm bổng,  dẫn dắt hồn người vào cõi thiên thai.
  Bức tranh thu được điểm xuyết bằng những nét mềm mại, dịu dàng nên càng thêm thơ mộng:
  Con đường nhỏ nhỏ, gió xiêu xiêu,
Lả lả cành hoang nắng trở chiều.
Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn,
Lần đầu rung động nỗi thương yêu.
  Con đường nhỏ nhỏ và hàng cây ven đường xiêu xiêu theo  chiều gió, cành  hoang lả lả trong sắc nắng chiều vàng mơ. Tất cả như  mời mọc bước chân  của những chàng trai, cô gái đang yêu. Lạc vào xứ sở  của tình yêu, chàng  trai chợt nhận ra sự biến đổi kì diệu ở trong lòng.  Đó là những rung  động luyến ái đầu tiên trong đời trước một thiếu nữ  đang vô tình cùng đi  trên đường:
  Em bước điềm nhiên không vướng chân,
Anh đi lững đững chẳng theo gần,
Vô tâm – nhưng giữa bài thơ dịu,
Anh với em như một cặp vần.
  Sẵn có cảnh, giờ thêm người, sự giao hòa càng tăng lên  gấp bội. Cảnh thu  êm ái, nên thơ, tình thu nhẹ nhàng, thanh khiết.  Khung cảnh chiều thu  ẩn chứa cái duyên và một tình yêu rạo rực, xôn  xao, tựa như một bài thơ  của sự sống, trong đó thiên nhiên hòa làm một  với con người. Trong bài  thơ ấy: Anh với em như một cặp vần. So sánh  bất ngờ nhưng cực kì thú vị  của Xuân Diệu, chứng tỏ nhà thơ có khả năng  cảm nhận vô cùng tinh tế.
Bài thơ kết thúc bằng sự hình thành mối tơ duyên đôi lứa:
  Ai hay tuy lặng bước thu êm,
Tuy chẳng băng nhân gạ tỏ niềm.
Trông thấy chiều hôm ngơ ngẩn vậy,
Lòng anh thôi đã cưới lòng em.
  Khung cảnh thiên nhiên mà tất cả sự vật kết thành đôi,  thành cặp và đang  mê mải giao duyên đã vô tình đóng vai trò ông tơ bà  nguyệt xe duyên cho  đôi lứa. Thi sĩ trong phút xuất thần đã viết nên  câu thơ để đời: Lòng  anh thôi đã cưới lòng em. Chữ thôi nói lên cái thế  đã rồi, còn cưới lòng  là từ hoàn toàn sáng tạo và vô cùng độc đáo của  Xuân Diệu, nói về một  sự đính ước, một cuộc hôn nhân bí mật của hai tâm  hồn đồng điệu. Trước  cảnh vật rạo rực một niềm giao hòa như thế, con  người sẽ tự tìm đến với  nhau mà không cần một lời mai mối.
  Ba bài thơ hay và đẹp tả cảnh thiên nhiên mùa xuân,  mùa thu và thể hiện  cảm xúc nồng nàn, tha thiết của thi sĩ trước thiên  nhiên và cuộc đời.  Đúng như lời tự bạch của Xuân Diệu: Sự sống chẳng  bao giờ chán nản. Cuộc  sống với những vui buồn muôn thuở cùng với thiên  nhiên muôn hình muôn  vẻ chính là nguồn thi hứng bất tận của “ông hoàng  thơ tình yêu” – Xuân  Diệu.