Tìm kiếm chủ đề bài viết ở đây trước khi hỏi TTB -Tìm bằng tiếng việt có dấu càng chính xác-Ví Dụ:Đánh vào Hwang mi ri để tìm truyện tác giả này
 
Hãy ủng hộ mua bất kỳ sản phẩm trên shopee.vn truy cập Vào Đây tìm sản phẩm rồi mua, mỗi lượt mua đều giúp duy trì website hoạt động miễn phí
KHÔNG XEM ĐƯỢC ẢNH TRUY CẬP ĐỔI DNS CLICK VÀO ĐÂY 
 
   	  	 
 
 
		 
	 
 
  
	
	
		
	
	
	| 
		
		 
			
				06-12-2014, 08:55 PM
			
			
			
		 
	 | 
 
	
		
        
        
		
		        
 
                                |   	
                              
				
 				 Đầy Tớ Của Nhân Dân 
	
                 
 Facebook: https://www.facebook.com/tuthienbaocom 
		
 | 	
	
			
			 | 
	
			
	
                              
					  
					
					
					
				
			 | 
		  |  
		 
		
	 | 
 
	
	
		
	
		
		
			
			
				 
				Anh chị hãy viết bài văn phân tích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ trong Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn
			 
			 
			
		
		
 
 
 
 
 
 
I. DÀN Ý 
1. Mỏ bài: 
- Tác phẩm Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn  viết bằng chữ Hán, được sáng tác vào khoảng nửa đầu thế kir XVIII, khi  xã hội phong kiến nước ta đang lâm vào tinh trạng rối ren, khồng hoảng.  Nội chiến xảy ra liên miên. Nông dân nổi dậy khắp nơ chống lại triều  đình. Cảnh sinh li tử biệt, đau thương tang tóc xảy ra hằng ngày... 
-  Chinh phụ ngâm của Đặng Trần cỏn ra đời đã nhận được sự đổng cảm rộng  rả của táng lớp Nho sĩ. Nhiều người dịch tác phầm sang chữ Nôm. Bản dịch  của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm là thành công hơn cả. 
- Nội dung Chinh phụ  ngâm phản ánh thái độ căm ghét, lên án chiến tranh phi nghĩa, đề cao  quyển sống cùng khát vọng hạnh phúc của con người. Đoạn trích Tình cảnh  lổ loi của người chinh phụ từ câu 193 đến câu 228 miêu tả những cung bậc  và sắc thái khác nhau của nỗi cô đơn, buồn khổ trong tâm trạng người  chinh phụ đang khao khát được sống trong tình yêu và hạnh phúc lứa đôi. 
2. Thản bài: 
* Bố cục đoạn trích gồm ba đoạn nhỏ: 
- Đoạn 1 : Từ đầu... đến phím loan ngại chùng: Nỗi cô đơn của người chinh phu trong tinh cảnh lẻ loi... 
- Đoạn 2: Tiếp theo... đến chuông chùa nện khơi: Nỗi nhớ thương người chổng ở phương xa.  
- Đoạn 3: Còn lại: Trong lòng người chinh phụ rạo rực niềm khát khao hạnh phúc lứa đôi. 
* Nỗi cô đơn của người chinh phụ trong tinh cảnh lẻ loi: 
- Khắc khoải mong chờ: Dạo hiên vẳng thầm gieo từng bước; bốn chồn sốt ruột: Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen. 
-  Lúc nào và ở đâu nàng cũng thấy lẻ loi: ban ngày, ban đêm, ngoài hiên  vắng, trong phòng khuê... Nỗi cô đơn tràn ngập không gian và kéo dài vô  tận theo thời gian luôn đeo đẳng, ám ảnh nàng. 
- Khát khao được đồng  cảm: Người chinh phụ trách chim thước chẳng chịu mách tin. Lúc đầu, nàng  nghĩ may ra chỉ có ngọn dèn biết tâm sự của minh, sau lại nghĩ đèn có  biết thì cũng bằng không. Nỗi sầu thương không được san sè nên lòng nàng  càng bi thiết. 
- Hình ảnh người chinh phụ thầm gieo từng bước ngoài  hiên vắng và ngồi một mình với ngọn đèn trong phòng đã cực tả nỗi cô đơn  trong tình cảnh lẻ loi. 
- Từ câu 9 đến câu 12 : Đêm khuya, nghe  tiếng gà gáy báo tửng trống canh, người chinh phụ không sao ngủ được.  Ban ngày, nhìn bóng hoè hết dời bên này tại chuyển bên nọ, người chinh  phụ thấy thời gian chờ đợi dài vô cùng. Những từ láy đằng đẳng, dằng dặc  có sức gợi tả gợi cảm rất lớn. 
- Từ câu 13 đến 16: Người chinh phụ  gắng tìm cách vượt ra khỏi vòng vây của cảm giác cô đơn, nhưng rốt cuộc  vẫn không thoát nổi. Khi đốt hương thì nàng lại chìm đắm vào sáu tủi  miên man; lúc soi gương thì lại nhớ gương này mình với chổng dã soi  chung, nên không cầm được nước mắt. Nàng gượng gảy đàn thì lại sợ dày  uyên đứt, phím loan chủng... Nàng đành ngẩn ngơ trở về với nỗi cô đơn  đang chất chứa trong lòng. 
* Nỗi nhớ thương người chổng ở phương xa. 
-  Người chinh phụ nghĩ đến chồng mình đang xông pha nơi chiến trận ở  phương xa, chợt nảy ra ý nghĩ: nhờ gió 'xuân gửi lòng mình tới chồng: 
Lòng này gửi gió đông có tiện ? 
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên. 
Non Yên dù chẳng tới miền 
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời. 
-  Câu thơ thể hiện nỗi nhớ mênh mông, vô tận. Thâm thảm nỗi nhớ chổng mà  cũng là thăm thẳm con đường đến chỗ chổng đang đánh giặc, thăm thẳm con  đường lên trời. Đất trời thi bao la, bát ngát, liệu có thấu nỗi sinh li  đau đớn hơn tủ biệt đang giày vò ghê gớm cõi lòng người chinh phụ hay  chăng? 
- Giữa cảnh vật và con người dường như có sự tương đổng khiến  cho mối sâu thương càng trở nên miên man, bất tận : Cảnh buồn người  thiết tha lòng, Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun... Chinh phụ  nhìn cảnh vật bằng đôi mắt chất chứa buồn thương nên thấy bất cứ cái gì  cũng gợi dậy bao nỗi đoạn trường. Ý thơ đi từ tinh đến cảnh rồi lại từ  cảnh trở về tình nhằm thể hiện rõ tinh cảnh vả tâm trạng lẻ loi cúa  người chinh phụ. Dù ở đâu, lúc nào, làm gì... nàng cũng chì lầm lũi, vò  võ một mình một bóng mà thôi! 
- Trời đất không cùng, nỗi nhớ cũng không cùng ; người chinh phụ đành trở lại  
với thực tố xung quanh. Ý thơ chuyển từ tinh sang cảnh. Không gian âm  u: Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun, như truyền, như ngấm cái  lạnh lẽo đáng sợ vào tận tầm hơn người chinh phụ cô đơn: 
Sương như búa, bổ mòn gốc liễu, 
Tuyết dường cưa, xẻ héo cành ngô. 
 Tuy nhiên, đến câu Sâu tường kêu vầng chuông chùa nện khơi, không khí  đã thấy dễ chịu hơn. Cũng bởi người chinh phụ chỉ mới thấy thất vọng mà  chưa tuyệt vọng. 
• Trong lòng người chinh phụ rạo rực niềm khát khao hạnh phúc lứa đôi. 
-  Tám câu cuối là bức tranh tả cảnh ngụ tinh đặc sắc nhất trong Chinh phụ  ngâm. Chữ thốc rất mạnh trong câu Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên báo  hiệu sự chuyển sang một tâm trạng mới ở người chinh phụ. cảnh hoa -  nguyệt giao hoà khiến lòng người rạo rực, khao khát hạnh phúc lửa đôi: 
Lá màn lay ngọn gió xuyên, 
Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm. 
Hoa dãi nguyệt, nguyệt in một tấm, 
Nguyệt lổng hoa, hoa thâm từng bông. 
■ Điệp từ hoa, nguyệt, các động từ dãi, lồng ngầm diễn đạt ý lứa đỗi quấn quýt, gán gũi; âu yếm nồng nàn mà vẫn kín đáo, tế nhị. 
• Đặc điểm nghệ thuật: 
-  Tác giả chọn và dùng từ rất đắt: Dạo hiên vắng thấm gieo từng bước,  Sương như búa, bồ mòn gốc liễu, Tuyết dường cưa, xò hẻo cành ngô, Một  hàng tiêu gió thốc ngoài hiên,... Đặc biệt, tác giả đã khai thác và sử  dụng hàng loạt từ láy: gà eo óc, hòe phất phơ, khắc giở đằng đẵng, mối  sầu dằng dặc, hồn mê mải, lệ châu chan, trời thâm thẳm, nhở đau đầu,...  về nhạc điệu, tác giả đã phát huy một cách tài tinh nhạc điệu trám bổng,  du dương của thể song thất lục bát giống như những đợt sóng dào dại  diễn tả tám trạng người chinh phụ hốt nhớ lại thương, hết thương lại nhớ  trong tình cảnh lẻ loi đơn chiếc. 
3. Kết bài: 
- Bàng nghệ thuật  tả cành tả tinh điêu luyện, tác giả dã diễn tả thành công những cung bậc  cảm xúc khác nhau trong lòng người chinh phụ và thông qua đó lẽn án  chiến tranh phi nghĩa, để cao hạnh phúc lứa đôi... 
- Tác phẩm Chinh  phụ ngâm đã toát lẻn tư tưởng chủ đạo trong ván chương một thời, đó là  tư tưởng đòi quyền sống, quyền được hưởng hạnh phúc rất chính đáng của  con người. 
 
 
 
Chinh phụ ngâm được tác giả Đặng Trẩn Côn sáng tác bằng chữ Hán vào  khoảng nửa đầu thế kỉ XVIII, thời kì vô cùng rối ren của xã hội phong  kiến. Chiến tranh xảy ra liên miên hết Lô - Mạc đánh nhau đến Trịnh -  Nguyễn phân tranh, đất nước chia làm hai nửa. Ngai vàng của nhà Lê mục  ruỗng. Nông dân bất binh nổi dậy khởi nghĩa ở khắp nơi. Dân chúng sống  trong cảnh loạn li nối da nấu thịt, cha mẹ xa con, vợ xa chổng. Văn học  thời kì này tập trung phản ánh bản chát tàn bạo, phản động của giai cấp  thống trị và nỗi đau khổ của những nạn nhân trong chế độ thối nát ấy.  Tác phẩm Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn ra đời đã nhận được sự đổng  cảm rộng rãi của tầng lớp Nho sĩ. Có nhiều người dịch tác phẩm nảy sang  chữ Nôm, trong đó bản dịch của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm được đánh giá là hoàn  hảo hơn cả bở; nó thể hiện gần như trọn vẹn giá trị nội dung và nghệ  thuật của nguyên tác. 
Nội dung Chinh phụ ngâm phản ánh thái độ oán  ghét chiến tranh phong kiến phi nghĩa, đặc biệt là để cao quyền sống  cùng khát vọng tinh yêu và hạnh phúc lứa đôi của con người. Đó là điều  ít được nhắc đến trong thơ văn trước đây. 
Người chinh phụ vốn dòng  dõi trâm anh. Nàng tiễn chổng ra trận với mong muốn chổng minh sẽ lập  được công danh và trở vể cùng với vinh hoa, phú quý. Nhưng ngay sau buổi  tiễn đưa, nàng phải sống trong tinh cảnh lẻ loi, ngày đêm xót xa lo  lắng cho chổng. Thấm thìa nỗi cô đơn, nàng nhận ra tuổi xuân của mình  đang trôi qua vùn vụt và cảnh lứa đôi đoàn tự hạnh phúc ngày càng trỗ  nên xa vời. Vì vậy mà nàng rơi vào tâm trạng cô đơn, sầu khổ triền miên.  Khúc ngâm thể hiện rất rõ tâm trạng ấy. 
Đoạn trích Tình cảnh lẻ loi  của người chinh phụ (từ câu 193 đến câu 228) miêu tả những cung bậc và  sắc thái khác nhau của tâm trạng cô đơn, buồn khổ ở người chinh phụ trẻ  đang khao khát được sống trong tinh yêu và hạnh phúc lứa đôi. 
Đoạn trích có thể chia làm ba đoạn nhỏ: 
Đoạn  một (từ câu 1 đến câu 16): Nỗi cô đơn của người chinh phụ trong cảnh lẻ  loi; cảm giác về thời gian chờ đợi; cố tìm cách giải khuây nhưng không  được. 
Đoạn hai (từ câu 17 đến câu 28): Nỗi nhớ thương người chổng ở phương xa; cảnh ảm đạm khiến lòng chinh phụ càng thêm sầu thảm. 
Đoạn 3 (từ câu 29 đến hết): Khung cảnh thiên nhiên khiến lòng người chinh phụ rạo rực, khao khát hạnh phúc lứa đôi.  Sau buổi tiễn đưa, người chinh phụ trở về, tưởng tượng ra cảnh chiến  trường đầy hiểm nguy, chết chóc mà xót xa, lo lắng cho chổng. Một lẩn  nữa, nàng ti/ hỏi vỉ sao đôi lúa uyên ương lại phải chia lia ? Vì sao  mình lại rơi vào tình cảnh lẻ loi? Bấy nhiêu câu hỏi đều không có lời  đáp. Tâm trạng bân khoăn, day dứt của người chinh phụ được tác giả thể  hiện sinh động bằng nghệ thuật'miêu tả tấm lí tinh tế. Có thể nói, sáu  và nhớ là cảm xúc chủ đạo trong đoạn thơ này. 
Trong phẩn đẩu, hành động và tâm trạng của người chinh phụ dã được ngòi bút sắc sảo của tác giả khắc hoạ rõ nét: 
Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen. 
Ngoài rèm thước chẳng mách tin, 
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng ? 
Đèn có biết dường bằng chẳng biết ? 
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi. 
Buồn rầu nói chẳng nên lời, 
Hoa đèn kia với bóng người khả thương! 
Nàng  lăng lẽ Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước trong nỗi cô đơn dang tràn  ngập tâm hồn. Nhịp thơ chậm gợi cảm giác như troi gian ngưng đọng. Giữa  không gian tịch mịch, tiếng bước chân như gieó vào lòng người âm thanh  lẻ loi, cô độc. Nỗi nhớ nhung sầu muộn và khắc khoải mong chờ khiến bước  chân người chinh phụ trở nên nặng trĩu. Nàng bổn chồn đứng ngồi không  yên, hết buông rèm xuống rồi lại cuốn rèm lên, sốt ruột mong một tiếng  chim thước báo tin vui mà chẳng thấy. 
Nàng khát khao có người đồng  cảm và chia sẻ tâm tình. Không gian im ẳng, chỉ có ngọn đèn đổi diện với  năng. Lúc đầu, nàng tưởng như ngọn đèn biết tâm sự của mình, nhưng rồi  lại nghĩ: Đèn có biết dường bằng chẳng biết, bởi nó là vật vô tri vô  giác. Nhìn ngọn đèn chong suốt năm canh, dầu đã cạn, bấc đã tàn, náng  chợt liên tưởng đến (ình cảnh của minh và trong lỏng rưng rưng nỗi  thường thân tủi phận: Hoa đèn kia với bóng người khá thương. 
Hình ảnh  người chinh phụ thầm gieo từng bước ngoài hiên vắng và suốt năm canh  ngồi một mình bên ngọn đèn chong, không biết san sẻ nỗi niềm tâm sự cùng  ai đã miêu tả được tâm trạng cô đơn tột độ của người chinh phụ.  
Tác  giả đặc tả cảm giác cô đơn của người chinh phụ trong tám cảu thơ. Đó là  cảm giác lúc nào và ở đâu cũng thấy lẻ loi: ban ngày, ban đêm, ngoài  hiên vắng, trong phòng lạnh... Nỗi cô đơn tràn ngập không gian và kéo  dài vô tận theo thời gian luôn đeo đẳng, ám ảnh nàng. 
Cảnh vật xung  quanh không thể san sẻ mà ngược lại như cộng hưởng với nỗi sầu miên man  của người chinh phụ, khiến nàng càng đớn đau, sầu tủi: 
Gà eo óc gáy sương năm trống, 
Hoè phất phơ rủ bóng bốn bên. 
Khấc giờ đàng đảng như niên, 
Mối sầu dàng dặc tựa miền biển xa. 
Tiếng  gà gáy báo sáng làm tăng thêm vẻ tĩnh mịch, vắng lặng. Những cây hoè  phất phơ rủ bóng gợi cảm giác buồn bà, u sầu. Giữa không gian ấy, người  chinh phụ cảm thấy mình nhỏ bé, cô độc biết chừng nào! 
ở các khổ thơ tiếp theo, nổi ai oán hiện rõ trong từng chữ, từng cảu, dù tác giả không hề nhắc đến hai chữ chiến tranh: 
Hương gượng đốt hồn đà mê mải, 
Gương gượng soi lệ lại châu chan. 
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn, 
Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng. 
Người  chinh phụ cố gắng tìm mọi cách để vượt ra khỏi vòng vây của cảm giác cô  đơn đáng sợ nhưng vẫn không sao thoát nổi. Nàng gắng gượng điểm phấn tô  son và dạo đàn cho khuây khoả nhưng càng lún sâu bơn vào sự tuyệt vọng.  Chạm đến đâu cũng là chạm vào nỗi đau, chạm vào tinh cành lẻ loi đơn  chiếc. Khi Hương gượng đốt thi hổn nàng lại chìm đắm vào nỗi thấp thỏm  lo âu. Lúc Gương gượng so/ thì nàng lại không cầm được nước mắt bởi vì  nhớ gương này mình cùng chổng đã từng chung bóng, bởi vì phải đối diện  với hình ảnh đang tàn phai xuân sắc của mình. Nàng cố gảy khúc đàn loan  phượng sum vầy thì lại chạnh lòng vì tình cảnh vợ chổng đang chia Ra đôi  ngả, đầy những dự cảm chẳng lành : Dây uyên kinh đứt, phim loan ngại  chùng. Rốt cuộc, người chinh phụ đành ngẩn ngơ trở về với nỗi cô đơn  đang chất ngất trong lòng minh vậy. 
Sắt cầm, uyên ương, loan phụng là  những hình ảnh ước lệ tượng trưng cho tình yêu nam nữ, tinh nghĩa vợ  chổng. Nay vợ chổng xa cách, tất cả đều trở nên vô nghĩa. Dường như  người chinh phụ không dám đụng tới bất cứ thứ gì vì chúng nhắc nhở tới  những ngày đoàn tụ hạnh phúc đã qua và linh cảm đến sự chia lìa đôi lứa  trong hiện tại. Tâm thế của nàng thật chông chênh, chơi vơi, khiến cho  cuộc sống trở nên khổ sở, bất an. Mong chờ chồng trong nỗi sợ hãi và  tuyệt vọng, nàng chỉ còn biết gửi nhớ thương theo ngọn gió: 
Lòng này gửi gió đông có tiện ?  
Nghìn vàng xin gũi đốn non Yên. 
Sau những day dứt của một trạng  thái bế tắc cao độ, người chinh phụ chợt nảy ra một ý nghĩ rất chần  thành mà cũng rất nên thơ: nhờ ngọn gió xuân gửi lòng minh tới người  chồng ở chiến trường xa, dang đối đẩu từng ngày từng giờ với cái chết để  mong kiếm chút tước hẩu. Chắc chắn, chàng cũng sống trong tâm trạng nhớ  nhung mái ấm gia đinh cùng với bóng dáng thân yêu của người vợ trẻ: 
Non Yên dù chẳng tới miền, 
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời. 
Không  gian xa cách giữa hai đầu nỗi nhớ được tác giả so sánh với hình ảnh vũ  trụ vò biên: Nhớ chàng thảm thẳm đường lên bằng trời. Thăm thẳm nỗi nhổ  người yêu, thăm thẳm con đường đến chỗ người yêu, thăm thẳm con dường  lên tròi. Câu thơ hàm súc vể mặt ý nghĩa và cô đọng về mặt hình thức.  Cách bộc lộ tâm trạng cá nhân trực tiếp như thế này cũng là điều mới mẻ,  hiếm thấy trong văn chương nước ta thời trung đại: 
Trời thăm thẳm xa vài khôn thấu, 
Nỗi nhở chàng đau đáu nào xong. 
Hai  câu thất ngôn chứa đựng sự tương phản sâu sắc tạo nên cảm giác xót xa,  cay đắng. Đất trời thì bao la, bát ngát, không giới hạn, liệu có thấu  nỗi sinh //đau đớn đang giày vò ghê gớm cõi lòng người chinh phụ hay  chăng? Nói như người xưa: trời thì cao, đất thì dày, nỗi niềm uất ức  biết kêu ai? biết ngỏ cùng ai? Bởi vậy nên nó càng kết tụ, càng cuộn  xoáy, gây nên nỗi đau đớn khôn nguôi: 
Cảnh buồn người thiết tha lòng, 
Cành cày sương đượm tiếng trùng mưa phun. 
Giữa  con người và cảnh vật dường như có sự tương đổng khiến cho nỗi sầu  thương trở nên da diết, bất tận. Cảnh vật xung quanh người chinh phụ đã  chuyển thành tâm cảnh bởi được nhìn qua đôi mắt đẫm lệ buồn thương. Sự  giá lạnh của tâm hổn làm tăng thêm sự giá lạnh của cảnh vật. Cũng giọt  
sương  ấy đọng trên cành cây, cũng tiếng trùng ấy rả rích trong đêm mưa gió,  nhưng cảnh ấy tinh này lại gợi nên bao sóng gió, bao nỗi đoạn trưởng  trong lòng người chinh phụ. Tình cảnh ấy, tâm trạng ấy tự nó đã nói lên  bi kịch của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa kia. Ý thơ đi từ  tinh đến cảnh rổi lại từ cảnh trở về tinh, cứ lặp đi lặp lại như vậy  nhằm thể hiện rõ tinh cảnh lẻ loi và tâm trạng cô đơn của người chinh  phụ. Dù ở đâu, lúc nào, làm gì... nàng cũng chỉ lầm lũi, vò võ một minh  một bóng mà thôi! 
Bầu trời bát ngát không cùng và nỗi nhớ cũng không  cùng, nhưng suy tưởng thì có hạn; người chinh phụ lại trở về với thực tế  cuộc sống nghiệt ngã của mình. Ý thơ chuyển từ tinh sang cảnh. Thiên  nhiên lạnh lẽo như truyền, như ngấm cái lạnh lẽo đáng sợ vào tận tâm hồn  người chinh phụ cô đơn: Sương như búa, bổ mòn gốc liễu, 
Tuyết dường cưa, xẻ héo cành ngô. 
Hình  như người chinh phụ đã thấm thìa sức tàn phá ghê gớm của thời gian chờ  đợi. Tuy nhiên đến câu: Sâu tường kêu vắng chuông chùa nện khơi thi  không khí đã dễ chịu hơn, cũng bởi người chinh phụ chỉ mới thất vọng mà  chưa tuyệt vọng. 
Tám câu cuối là bức tranh tả cảnh ngụ tính đặc sắc nhất trong Chinh phụ ngâm: 
Vài tiếng dế nguyệt soi trước ốc, 
Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên. 
Lá' màn lay ngọn gió xuyên, 
Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm. 
Hoa dãi nguyệt, nguyệt in một tấm, 
Nguyệt lồng hoa, hoa thám từng bông. 
Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng, 
Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đau! 
Ý  thơ đi từ tinh đến cảnh rồi lại từ cảnh trở về tinh, cử dội qua dội lại  như vậy nhằm thể hiện rõ tâm trạng ở đâu, lúc nào, làm gì... người  chinh phụ cũng chỉ vò võ một mình một bóng mà thôi! 
Từ thốc rất mạnh  trong càu Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên báo hể- chuyển sang một tâm  trạng mới ở người chinh phụ. Cảnh hoa - nguyệt giao hoà khiến lòng người  rạo rực, khao khát hạnh phúc lứa đối. Những động từ dãi, lồng toát lên  cái ý lửa đôi quấn quýt gần gũi, âu yếm nồng nàn mà vẫn tế nhị, kín đáo. 
Tác  giả lựa chọn và dùng từ rất kĩ, rất đắt, đặc biệt là các tính từ là từ  láy làm nổi bật tinh chất của sự vật : eo óc, phất phơ, đàng đàng, dàng  dặc, mê mải, châu chan, thăm thẳm, đau đáu... về nhạc điệu, tác giả đã  khai thác và phát huy một cách tài tình âm hưởng trầm bổng, du dương của  thể thơ song thất lục bát để diễn tả cảm xúc giống như những đợt sóng  dạt dào trong tâm trạng người chinh phụ, hết nhớ lại thương, hết lo lắng  lại trông mong, hết hi vọng lại tuyệt vọng... trong tinh cảnh lẻ loi  đơn chiếc. 
Bằng bút pháp nghệ thuật điêu luyện, tác giả đã diễn tả  được những diễn biến phong phú, tinh vi các cung bậc tình cảm của người  chinh phụ. Cảnh cũng như tinh được miêu tả rất phù hợp với diễn biến của  tâm trạng nhân vật. Thông qua tâm trạng đau buồn của người chinh phụ  đang sống trong tình, cảnh lẻ loi vì chổng phải tham gia vào những cuộc  tranh giành quyển lực của vua chúa, tác giả có chủ ý để cao hạnh phúc  lứa đôi và thể hiện thái độ bất binh, phản kháng đối với chiến tranh phi  nghĩa. Tác phẩm Chinh phụ ngẫm đã toát lên tư tưởng chủ dạo trong văn  chương một thời, đó là tư tưởng đòi quyền sống, quyến dược hưởng hạnh  phúc rất chính đáng của con người. 
 
 
 
Chinh phụ ngâm được viết bằng chữ Hán, do tác giả Đặng Trần Côn  sáng tác vào khoảng nửa đầu thế kỉ XVIII. Đây là thời kì vô cùng rối ren  của xã hội phong kiến. Chiến tranh xảy ra liên miên, hết Lê-Mạc đánh  nhau đến Trịnh-Nguyễn phân tranh, đất nước chia làm hai nửa. Ngai vàng  của nhà Lê mục ruỗng. Nông dân bất bình nổi dậy khởi nghĩa ở khắp nơi.  Nhân dân sống trong cảnh loạn li nồi da nấu thịt, cha mẹ xa con, vợ xa  chồng. Văn học thời kì này tập trung phản ánh bản chất tàn bạo, phản  động của giai cấp thống trị và nỗi đau khổ của những nạn nhân trong chế  độ thối nát ấy. Tác phẩm Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn ra đời đã nhận  được sự đồng cảm rộng rãi của tầng lớp Nho sĩ. Nhiều bản dịch xuất  hiện, trong đó bản dịch sang chữ Nôm của bà Đoàn Thị Điểm được coi là  hoàn hảo hơn cả, thể hiện thành công lẫn trị nội dung và nghệ thuật của  nguyên tác. 
   
  Nội dung Chinh phụ ngâm phản ánh thái độ oán ghét chiến tranh phong kiến  phi nghĩa, đặc biệt là đề cao quyền sống cùng khao khát tình yêu và  hạnh phúc lứa đôi của con người. Đó là điều ít được nhắc đến trong thơ  văn trước đây. 
   
  Người chinh phụ vốn dòng dõi trâm anh. Nàng tiễn chồng ra trận với mong  muốn người chồng sẽ lập được công danh và trở về cùng với vinh hoa, phú  quý. Nhưng ngay sau buổi tiễn đưa, nàng sống trong tình cảnh lẻ loi,  ngày đêm xót xa lo lắng cho chồng. Thấm thìa nỗi cô đơn, nàng nhận ra  tuổi xuân của mình đang qua đi và cảnh lứa đôi đoàn tụ hạnh phúc ngày  càng xa vời. Người chinh phụ rơi vào tâm trạng cô đơn đến cùng cực. Khúc  ngâm thể hiện rất rõ tâm trạng cô đơn ấy. 
   
  Đoạn trích tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ (từ câu 193 đến câu 228)  miêu tả những cung bậc và sắc thái khác nhau của nỗi cô đơn, buồn khộ ở  người chinh phụ đang khao khát được sống trong tình yêu và hạnh phúc  lứa đôi. 
   
  Đoạn trích có thể chia làm ba đoạn nhỏ: 
   
  –    Đoạn 1 : Từ Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước… đến Dây uyên kinh  đứt, phím loan ngại chùng: Nỗi cô đơn của người chinh phụ trong cảnh lẻ  loi; cảm giác về thời gian chờ đợi; cố tìm cách giải khuây nhưng không  được. 
   
  –    Đoạn 2: Từ Lòng này gùi gió đông có tiện… đốn Sâu tường kêu vắng  chuông chùa nện khơi: Nỗi nhớ thương người chồng ở phương xa; cảnh vật  khiến lòng nàng thêm sầu thảm. 
   
  –    Đoạn 3: Từ Vài tiếng dế nguyệt soi trước ốc… đến Trước hoa dưới  nguyệt trong lòng xiết đau!. Cảnh vật xung quanh khiến lòng người chinh  phụ rạo rực niềm khát khao hạnh phúc. 
   
  Sau buổi tiễn đưa, người chinh phụ trở về, tưởng tượng ra cảnh chiến  trường đầy hiểm nguy, chết chóc mà xót xa, lo lắng cho chồng. Một lần  nữa nàng tự hỏi vì sao đôi lứa uyên ương lại phải chia lìa? Vì sao mình  lại rơi vào tình cảnh lẻ loi? Bấy nhiêu câu hỏi đều không có câu trả  lời. Tâm trạng băn khoăn, day dứt ấy được tác giả thể hiện sinh động  bằng nghệ thuật miêu tả tâm lí tinh tế. Có thể nói, sầu và nhớ là cảm  xúc chủ đạo trong đoạn thơ này. 
   
  Trong mười sáu câu thơ đầu, tác giả tập trung miêu tả hành động và tâm trạng của người chinh phụ: 
   
  Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước  
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen. 
Ngoài rèm thước chẳng mách tin, 
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng ? 
Đèn có biết dường bằng chẳng biết? 
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi. 
Buồn rầu nói chẳng nên lời, 
Hoa đèn kia với bóng người khá thương! 
   
  Nàng lặng lẽ Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước trong nỗi cô đơn đang  tràn ngập tâm hồn. Nhịp thơ chậm gợi cảm giác như thời gian ngưng đọng. 
   
 Giữa không gian tịch mịch, tiếng bước chân như gieo vào lòng người  âm thanh lẻ loi, cô độc. Nỗi nhớ nhung sầu muộn và khắc khoải mong chờ  khiến bước chân người chinh phụ trở nên nặng trĩu. Nàng bồn chồn đứng  ngồi không yên, hết buông rèm xuống rồi lại cuốn rèm lên, sốt ruột mong  một tiếng chim thước báo tin vui mà chẳng thấy. 
   
  Nàng khát khao có người đồng cảm và chia sẻ tâm tình. Không gian im ắng,  chỉ có ngọn đèn đối diện với nàng. Lúc đầu, nàng tưởng như ngọn đèn  biết tâm sự của mình, nhưng rồi lại nghĩ: Đèn có biết dường bằng chẳng  biết, bởi nó là vật vô tri vô giác. Nhìn ngọn đèn chong suốt năm canh,  dầu đã cạn, bấc đã tàn, nàng chợt liên tưởng đến tình cảnh của mình và  trong lòng rưng rưng nỗi thương thân tủi phận: Hoa đèn kia với bóng  người khá thương! 
   
   Hình ảnh người chinh phụ thầm gieo từng bước ngoài hiên vắng và suốt năm  canh ngồi một mình bên ngọn đèn chong, không biết san sẻ nỗi niềm tâm  sự cùng ai đã miêu tả được tâm trạng cô đơn tột độ của người chinh phụ. 
   
   
   
  Tác giả đặc tả cảm giác cô đơn của người chinh phụ trong tám câu thơ. Đó  là cảm giác lúc nào và ở đâu cũng thấy lẻ loi: ban ngày, ban đêm, ngoài  phòng, trong phòng. Nỗi cô đơn tràn ngập không gian và kéo dài vô tận  theo thời gian luôn deo đẳng, ám ảnh nàng. 
   
  Cảnh vật xung quanh không thể san sẻ mà ngược lại như cộng hưởng với nỗi  sầu miên man của người chinh phụ, khiến nàng càng đớn đau, sầu tủi: 
   
  Gà eo óc gáy sương năm trống, 
Hòe phất phơ rũ bóng bốn bên. 
Khắc giờ đằng đẵng như niên, 
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa. 
   
  Tiếng gà gáy báo canh năm làm tăng thêm vẻ tĩnh mịch, vắng lặng. Cây hòe  phất phơ rũ bóng trong ánh sáng lờ mờ của ban mai gợi cảm giác buồn bã,  hoang vắng. Giữa không gian ấy, người chinh phụ cảm thấy mình nhỏ bé,  cô độc biết chừng nào! 
   
  Ở các khổ thơ tiếp theo, nỗi ai oán hiện rõ trong từng chữ, từng câu, dù tác giả không hề nhắc đến hai chữ chiến tranh: 
   
  Hương gượng đốt hồn đà mê mải, 
Gương gượng soi lệ lại châu chan. 
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn, 
Dày uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng. 
   
  Người chinh phụ cố gắng tìm mọi cách để vượt ra khỏi vòng vây của cảm  giác cô đơn đáng sợ nhưng vẫn không sao thoát nổi. Nàng gắng gượng điểm  phấn tô son và dạo đàn cho khuây khỏa nhưng càng lún sâu hơn vào sự  tuyệt vọng. Chạm đến đâu cũng là chạm vào nỗi đau, chạm vào tình cảnh lẻ  loi đơn chiếc, Khi Hương gượng đốt thì hồn nàng lại chìm đắm vào nỗi  thấp thỏm lo âu. Lúc Gương gượng soi thì nàng lại không cầm được nước  mắt bởi vì nhớ gương này mình cùng chồng đã từng chung bóng, bởi vì phải  đối diện với hình ảnh đang tàn phai xuân sắc của mình. Nàng cố gảy khúc  đàn loan phượng sum vầy thì lại chạnh lòng vì tình cảnh vợ chồng đang  chia lìa đôi ngả, đầy những dự cảm chẳng lành: Dây uyên kinh đứt, phím  loan ngại chùng. Rốt cuộc, người chinh phụ đành ngẩn ngơ trở về với nỗi  cô đơn đang chất ngất trong lòng mình vậy. 
   
  Sắt cầm, uyên ương, loan phụng là những hình ảnh ước lệ tượng trưng cho  tình yêu nam nữ, tình nghĩa vợ chồng. Nay vợ chồng xa cách, tất cả đều  trở nên vô nghĩa. Dường như người chinh phụ không dám đụng tới bất cứ  thứ gì vì chúng nhắc nhở tới những ngày đoàn tụ hạnh phúc đã qua và linh  cảm đến sự chia Ha đôi lứa trong hiện tại. Tâm thế của nàng thật chông  chênh, chơi vơi khiến cho cuộc sống trở nên khổ sở, bất an. Mong chờ  trong nỗi sợ hãi và tuyệt vọng, nàng chí còn biết gửi nhớ thương theo  cơn gió: 
   
  Lòng này gửi gió đông có tiện ? 
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên. 
Non Yên dù chẳng tới miền, 
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời. 
   
  Sau những day dứt của một trạng thái bế tắc cao độ, người chinh phụ chợt  có một ý nghĩ rất nên thơ: nhờ gió xuân gửi lòng mình tới người chồng ở  chiến trường xa, đang đối đầu với cái chết để mong kiếm chút tước hầu.  Chắc chắn, chàng cũng sống trong tâm trạng nhớ nhung mái ấm gia đình với  bóng dáng thân yêu của mẹ già, vợ trẻ, con thơ: 
   
  Non Yên dù chẳng tới miền, 
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời. 
   
  Không gian xa cách giữa hai đầu nỗi nhớ được tác giả so sánh với hình  ảnh vũ trụ vô biên: Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời. Thăm thẳm  nỗi nhớ người yêu, thăm thẳm con đường đến chỗ người yêu, thăm thẳm con  đường lên trời. Câu thơ hàm súc về mặt ý nghĩa và cô đọng về mặt hình  thức. Cách bộc lộ tâm trạng cá nhân trực tiếp như thế này cũng là điều  mới mẻ, hiếm thấy trong vắn chương nước ta thời trung đại: 
   
  Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu, 
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong. 
   
  Hai câu thất ngôn chứa đựng sự tương phản sâu sắc tạo nên cảm giác xót  xa, cay đắng. Đất trời thì bao la, bát ngát, không giới hạn, liệu có  thấu nỗi sinh li đau đớn đang giày vò ghê gớm cõi lòng người chinh phụ  này chăng? Nói như người xưa: trời thì cao, đất thì dày, nỗi niềm uất ức  biết kêu ai? biết ngỏ cùng ai? Bởi vậy nên nó càng kết tụ, càng cuộn  xoáy, gây nên nỗi đớn đau cho thể xác: 
   
  Cảnh buồn người thiết tha lòng, 
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun. 
   
  Giữa con người và cảnh vật dường như có sự tương đồng khiến cho nỗi sầu  thương trở nên da diết, bất tận. Cảnh vật xung quanh người chinh phụ đã  chuyển thành tâm cảnh bởi được nhìn qua đôi mắt đẫm lệ buồn thương cho  thân phận bất hạnh, cô đơn. Sự giá lạnh của tâm hồn làm tăng thêm sự giá  lạnh của cảnh vật. Cũng giọt sương ấy đọng trên cành cây, cũng tiếng  trùng ấy rả rích trong đêm mưa gió, nhưng cảnh ấy tình này lại gợi nên  bao sóng gió, bao nỗi đoạn trường trong lòng người chinh phụ. Tình cảnh  ấy, tâm trạng ấy tự nó đã nối lên bi kịch của người phụ nữ trong xã hội  cũ không được sống hạnh phúc, đồng thời cũng phản ánh thái độ lên án  chiến tranh của tác giả. 
   
  Bầu trời bát ngát không cùng và nỗi nhớ cũng không cùng, nhưng suy tưởng  thì có hạn; người chinh phụ lại trỏ về với thực tế cuộc sống nghiệt ngã  của mình. Ý thơ chuyển từ tình sang cảnh. Thiên nhiên lạnh lẽo như  truyền, như ngấm cái lạnh đáng sợ vào tận tâm hồn người chinh phụ cô  đơn: 
   
  Sương như búa, bổ mòn gốc liễu, 
Tuyết dường cưa, xẻ héo cành ngô. 
   
  Hình như người chinh phụ đã thấm thìa sức tàn phá ghê gớm của thời gian  chờ đợi. Tuy nhiên đến câu: Sâu tường kêu vắng chuông chùa nện khơi thì  không khí đã dễ chịu hơn, cũng bởi người chinh phụ chí mới thất vọng mà  chưa tuyệt vọng. 
   
  Tám câu cuối là bức tranh tả cảnh ngụ tình đặc sắc nhất trong Chinh phụ ngâm: 
   
  Vài tiếng dế nguyệt soi trước ốc, 
Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên. 
Lá màn lay ngọn gió xuyên, 
Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm. 
Hoa dãi nguyệt, nguyệt in một tấm, 
Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông. 
Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng, 
Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đau! 
   
  Ý thơ đi từ tinh đến cảnh rồi lại từ cảnh trở về tình, cứ dội qua dội  lại như vậy nhằm thể hiện rõ tâm trạng ở đâu, lúc nào, làm gi… người  chinh phụ cũng chí vò võ một mình một bóng mà thôi! 
   
  Từ thốc rất mạnh trong câu Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên báo hiệu sự  chuyển sang một tâm trạng mới ở người chinh phụ. Cảnh hoa – nguyệt giao  hòa khiến lòng người rạo rực, khao khát hạnh phúc lứa đôi. Những động  từ dãi, lồng toát lên cái ý lứa dôi quấn quýt gần gũi, âu yếm nồng nàn  mà vẫn tế nhị, kín đáo. 
   
  Tác giả lựa chọn và dùng từ rất kĩ, rất đắt: Dạo hiên vắng thầm gieo  từng bước, Sương như búa, bổ mòn gốc liễu, Tuyết dường cưa, xẻ héo cành  ngô, Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên… Đặc biệt, tác giả đã sử dụng  thành công hàng loạt từ láy: eo óc, phất phơ, đằng đẵng, dằng dặc, mê  mải, châu chan, thăm thẳm, đau đáu… về nhạc điệu, tác giả đã phát huy  một cách tài tình nhạc điệu du dương của thể thơ song thất lục bát,  giống như những đợt sóng dạt dào, diễn tả tâm trạng người chinh phụ hết  nhớ lại thương, hết thương lại nhớ trong tình cảnh lẻ loi đơn chiếc. 
   
  Bằng bút pháp nghệ thuật điêu luyện, tác giả đã diễn tả được những diễn  biến phong phú, tinh vi các cung bậc tình cảm của người chinh phụ. Cảnh  cũng như tình được miêu tả rất phù hợp với diễn biến của tâm trạng nhân  vật. 
   
  Thông qua tâm trạng đau buồn của người chinh phụ đang sống trong tình  cảnh lẻ loi vì chồng phải tham gia vào những cuộc tranh giành quyền lực  của các vua chúa, tác giả đã đề cao hạnh phúc lứa đôi và thể hiện tinh  thần phản kháng đối với chiến tranh phi nghĩa. Tác phẩm Chinh phụ ngâm  đã toát lên tư tưởng chủ đạo trong văn chương;một thời, đó là tư tưởng  đòi quyền sống quyền được hưởng hạnh phúc rất chính đáng của con người. 
 
 |  
  
 
		
		
		
 
  
 | 
 |   
 
    BÁO LỖI BÀI VIẾT
 Hãy gửi cốc trà đá cho TTB tài khoản ngân hàng phía dưới hoặc paypal : 
    paypalme/tuthienbao
 Giúp có kinh phí duy trì Free  
 
 
TÌM BÀI VIẾT KHÁC SEARCH TRÊN THANH TìM KIẾM PHÍA TRÊN WEB 
 
 
		
		
		
			
				  
				
				
					
				
			
		
		
		
			
			
			
			
				 
			
			
			
			
			
			
			
				
			
			
			
		 
	
	 | 
 
 
 
 
	 
	
		
	
	
		
 
  	 	 
 
	
ADS
	
	
 
 
	
	
Miễn trừ trách nhiệm.NẾU CÓ ĐIỀU KIỆN HÃY MUA SÁCH ỦNG HỘ NHÀ XUẤT BẢN 
© Tuthienbao.com- TTB chúng tôi không cung cấp chức năng đăng ký thành viên để viết bài hay bình luận - Nếu có khiếu nại chung tôi sẽ xử lý.Mọi dữ liệu về diễn đàn trên website này đều được chúng tôi và các thành viên tham gia website tổng hợp từ  tất cả các trang website .Do đó, chúng tôi không chịu trách nhiệm về những dữ liệu được chia sẻ tại đây.Truyện Nội Dung được chia sẻ chỉ với mục đích giải trí, phi lợi nhuận. Mọi bản quyền thuộc về tác giả và nhà xuất bản gốc.Nếu có yêu cầu gỡ bỏ, xin liên hệ qua email
  
truyen tranh,
truyen tranh 8,truyen tranh hay,
truyen tranh online,
ebook,ebook ngon tinh,
van hoc lop 5,van hoc lop 6,van hoc lop 7,van hoc lop 8,van hoc lop 9,van hoc lop 10,van hoc lop 11,van hoc lop 12,
 
     | 
  
 
 
Powered by: vBulletin v3.8.2
 Copyright ©2000-2025, Jelsoft Enterprises Ltd.
 
	
	
		
	
	
 
      |