


I. VỀ  TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM
 1. Tác giả
 Nguyễn Trãi (1380 – 1442), người thôn Chi Ngại, huyện Chí Linh, tỉnh  Hải Dương sau dời đến làng Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây. Ông  là một nhân vật lịch sử lỗi lạc, toàn tài hiếm có nhưng cũng là người  phải chịu cái án oan vào loại thảm khốc nhất trong lịch sử phong kiến  Việt Nam. Nguyễn Trãi là người Việt Nam đầu tiên được Tổ chức Giáo dục,  Khoa học và Văn hoá của Liên Hợp Quốc (UNESCO) công nhận là danh nhân  văn hoá thế giới (năm 1980).
 
2. Tác phẩm
 Bài 
Côn sơn ca có thể được viết trong khoảng thời gian Nguyễn Trãi cáo quan về ở ẩn tại Côn Sơn (nay thuộc huyện Chí Linh – Hải Dương).
 Đoạn thơ trong SGK này được trích từ bài thơ 
Côn Sơn ca rút trong tập 
Thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi.
 
II. KIẾN THỨC CƠ BẢN
 1. Nhận dạng thể thơ của bài thơ dịch về soa câu, số chữ, cách hiệp vần theo những kiến thức đã biết về thể thơ lục bát.
 2. Đoạn thơ có năm từ 
ta.
 a) Nhân vật 
ta ở đây chính là nhà thơ.
 b) Nhân vật 
ta là một người yêu thiên nhiên, là người có tâm  hồn phóng khoáng (ngồi trong bóng trúc xanh mát mà ngâm thơ nhàn). Có  thể thấy, trong đoạn thơ, nhân vật ta hiện lên như là một người nghệ sĩ  thực sự không vướng một chút bận nào của nhân gian.
 c) Tiếng suối chảy đước tác giả ví với tiếng đàn, rêu trên đá được ví  với chiếu êm, cách ví von này cho thấy tác giả là người giàu tình cảm  với thiên nhiên, coi thiên nhiên như những người ttri kỉ. Cách miêu tả  ấy cũng cho thấy đây là một người nghệ sĩ tinh tế, giàu trí tưởng tượng.
 3. Cùng với hình ảnh nhân vật 
ta, cảnh tượng Côn Sơn được gợi  tả bằng những chi tiết thật đẹp. Đó là một cảnh trí thiên nhiên thật  khoáng đạt, thanh tĩnh và nên thơ. Côn Sơn đẹp bởi tiếng suối rì rầm như  tiếng đàn ca, bởi bàn đá rêu phơi, bởi rừng trúc xanh màu xanh của lá  toả bóng mát cho người thi sĩ ngâm thơ.
 4.* Hình ảnh nhân vật 
ta ngồi ngâm thơ nhàn dưới màu xanh mát  của tán trúc che ngang, gợi cho ta nghĩ đến hình ảnh một tiên ông nhàn  tản, không chút vấn vương thế sự. Đó một thi sĩ đa tình đang thả trọn  tâm hồn với thiên nhiên. Thực ra, trong cuộc đời, không kể lúc làm quan  mà ngay khi đã về ở ẩn ở Côn Sơn, Nguyễn Trãi vẫn một lòng lo cho nước,  cho dân. Thế nhưng có lẽ chính vì thế mà chúng ta càng phải cảm phục vẻ  đẹp tài hoa và tâm hồn thi sĩ của ông. Trong muôn vàn vướng bận, Nguyễn  Trãi vần dành cho thiên nhiên một tình yêu thật tươi trong và tuyệt đẹp.  Đó cũng chính là vẻ đẹp nhất trong tâm hồn cao quý của ông.
 5. Đoạn thơ này dùng nhiều điệp từ (
ta, Côn Sơn, trong,…).  Hiện tượng điệp từ đã góp phần tích cực làm cho đoạn thơ có giọng điệu nhẹ nhàng, thơi thảnh, êm tai.
 
III. RÈN LUYỆN KĨ NĂNG
 1. Cách đọc
 Khi đọc, cần chú ý:
 - Nhịp điệu của các câu thơ:
 + Các câu sáu có nhịp 2/4.
 + Các câu tám chủ yếu theo nhịp 4/4, trừ câu thứ hai “Ta nghe / như tiếng đàn cầm bên tai” được viết theo nhịp 2/6.
 Với nhịp điệu như vậy cần đọc chậm, thong thả, rõ ràng, chú ý ngắt đúng nhịp để tăng sức diễn cảm.
 - Về thanh điệu:
 + Các tiếng thứ tư (cả câu 
sáu và câu 
tám) đều là thanh  trắc, sau đó là thanh bằng. Cách bố trí thanh điệu như vậy khiến cho ở  giữa các câu thơ, giọng điệu có xu hướng cao lên rồi lại hạ thấp xuống,  tạo ra một âm điệu trầm bổng, du dương. Khi đọc phải chú ý lên cao giọng  ở giữa câu và hạ thấp dần ở cuối câu.
 2. So sánh cách ví von tiếng suối của Nguyễn Trãi trong hia câu thơ “
Côn Sơn suối chảy rì rầm, Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai” và của Hồ Chí Minh trong câu thơ “
Tiếng suối trong như tiếng hát xa” (
Cảnh khuya):
 
Gợi ý: Cả hai cách ví von này đều là sản phẩm của những tâm  rất nên thơ và tinh tế (ẩn sau một tình yêu say đắm với thiên nhiên).  Tuy sự so sánh có khác nhau (một bên so sánh với tiếng đàn cần, bên kia  tiếng suối được cảm như tiếng hát của một người sơn nữ) thế nhưng cả hai  đều gợi ra sự ấm áp, tươi vui; gợi về tình yêu, niềm tin và sức sống.