




I. VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM
 1. Thể loại
 Chèo là loại kịch hát, múa dân gian, kể chuyện, diễn tích bằng hình  thức sân khấu và trước kia thường được diễn ở sân đình nên còn gọi là  chèo sân đình. Chèo nảy sinh và được phổ biến rộng rãi ở Bắc Bộ.
 
2. Tác phẩm
 Văn bản 
Quan Âm Thị Kính là phần lời (kịch bản) của một vở  chèo – một loại hình văn nghệ dân gian kết hợp nhiều hình thức như hát,  múa, diễn tích, kể chuyện,… được trình bày trên sân khấu (còn gọi là  chiếu chèo).
 Tuy chỉ là kịch bản sân khấu nhưng 
Quan Âm Thị Kính (và trích đoạn 
Nỗi oan hại chồng)  cũng thể hiện được những giá trị nghệ thuật nhất định, phần nào giúp  chúng ta hiểu được những đặc điểm cơ bản của nghệ thuật chèo, nhất là về  nội dung tư tưởng: những vấn đề mà vở chèo nêu ra, những mâu thuẫn và  xung đột trong xã hội cũ, nỗi khổ của người phụ nữ,…
 
II. KIẾN THỨC CƠ BẢN
 1. Đọc kĩ phần tóm tắt để hiểu nội dung của cả vở chèo.
 2. Đọc kĩ đoạn trích và các chú thích để hiểu văn bản và các từ ngữ khó, các từ cổ hiện ít dùng.
 3. Đoạn trích 
Nỗi oan hại chồng có năm nhân vật: Thị Kính,  Thiện Sĩ, Sùng ông, Sùng bà, Mãng ông. Cả năm nhân vật đều tham gia vào  quá trình tạo nên xung đột kịch, trong đó Thị Kính và Sùng bà là hai  nhân vật chính, thể hiện xung đột cơ bản của vở chèo:
 - Sùng bà thuộc kiểu nhân vật mụ ác, đại diện cho giai cấp thống trị, thuộc tầng lớp địa chủ phong kiến.
 - Thị Kính thuộc loại nhân vật nữ chính (mụ ác và nữ chính là hai  loại nhân vật rất tiêu biểu, thường xuất hiện trong chèo). Thị Kính tiêu  biểu cho người dân thường, nhất là cho người phụ nữ vốn phải chịu nhiều  thua thiệt trong xã hội cũ.
 4. Thị Kính vốn được sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo nhưng  lại về làm dâu nhà Thiện Sĩ, một gia đình địa chủ. Bởi vậy, cảnh sinh  hoạt ở đầu đoạn trích không thật quen thuộc, gần gũi với cuộc sống của  nhân dân lúc bấy giờ. Mặc dù vậy, cảnh Thị Kính ngồi khâu, Thiện Sĩ đọc  sách,… vẫn gợi lên một bầu không khí thật đầm ấm, hạnh phúc.
 Nổi bật lên trong đoạn này là hình ảnh Thị Kính, người phụ nữ hết  lòng thương yêu chồng. Khi chồng ngủ, Thị Kính đã dọn lại kỉ rồi quạt  cho chồng. Cũng vì yêu chồng mà khi Thiện Sĩ đã ngủ, Thị Kính chăm chú  nhìn và phát hiện ra một chiếc râu mọc ngược. Với suy nghĩ rất bình  thường, giản dị “Trước đẹp mặt chồng, sau đẹp mặt ta” (nhân dân ta còn  có câu “Xấu chàng hổ ai” cũng có nghĩa tương tự), Thị Kính đã toan lấy  dao khâu xén chiếc râu đó đi. Những suy nghĩ và hành động của Thị Kính  rất tự nhiên, thể hiện những tình cảm rất nồng nàn và chân thực của  người phụ nữ yêu chồng.
 5. Cả trong hành động và ngôn ngữ, Sùng bà đều chứng tỏ là một kẻ tàn  nhẫn, độc ác, không những thế lại còn coi thường những người lao động  nghèo khổ.
 - Về hành động: Sùng bà dúi đầu Thị Kính xuống, bắt Thị Kính phải  ngửa mặt lên (một kiểu hạ nhục người khác). Sùng bà không cho Thị Kính  được phân bua, thanh minh cho mình, dúi tay đẩy Thị Kính ngã khuỵu  xuống, nhất quyết trả Thị Kính về cho gia đình.
 - Về ngôn ngữ: Sùng bà đay nghiến, mắng nhiếc Thị Kính thậm tệ. Điều  quan trọng nhất là cách mắng chửi của Sùng bà đối với Thị Kính không  phải là lời mắng của mẹ đối với con, cũng không phải là của một bà mẹ  chồng đối với con dâu của mình.
 Lời lẽ, hành động của Sùng bà chứng tỏ mụ là người tàn nhẫn và độc  ác, không những thế lại còn hợm hĩnh, tự coi mình là tầng lớp trên, dẫn  đến coi thường những người khác, nhất là những người lao động. Điều đó  cho thấy Sùng bà tức giận, chửi mắng Thị Kính thậm tệ không hẳn vì nghĩ  rằng Thị Kính có ý làm hại con mụ mà vì sự chênh lệch đẳng cấp xã hội  giữa hai gia đình. Thị Kính là con nhà nghèo mà lại dám bước vào, hơn  thế nữa lại là nàng dâu, trở thành người trong gia đình mụ.
 6. Trước nỗi oan khuất, Thị Kính không biết làm gì khác, chỉ một mực  kêu oan. Thị Kính đã kêu oan đến năm lần. Bốn lần trước là hướng đến mẹ  chồng và chồng (“Oan con lắm mẹ ơi!”; “Oan thiếp lắm chàng ơi!”). Cả bốn  lần, lời kêu oan của Thị Kính chỉ như đổ thêm dầu vào lửa, bởi Thiện Sĩ  chỉ là một kẻ bạc nhược, đớn hèn, còn Sùng bà thì hiển nhiên không muốn  chấp nhận Thị Kính là dâu con trong nhà. Chỉ đến lần thứ năm, lời kêu  oan của Thị Kính mới nhận được sự cảm thông, nhưng đó lại chỉ là của  Mãng ông: “Oan cho con lắm à?”. Một sự cảm thông đau khổ và bất lực.  Mãng ông biết con gái bị oan nhưng chỉ là một người nông dân nghèo,  không có vị thế trong xã hội, ông không thể làm gì để giúp đỡ con gái.
 7. Sùng ông, Sùng bà thật là những kẻ độc ác đến tàn nhẫn. Đuổi Thị  Kính ra khỏi nhà chưa thoả, trước khi đuổi, chúng còn bày ra một màn  kịch độc ác nhằm làm cho họ phải nhục nhã ê chề. Sùng ông gọi Mãng ông  sang để nhận con gái về, lại nói: 
Ông Mãng ơi, ông sang mà ăn cữ cháu!Mãng ông tưởng thật, đang nói giọng hoan hỉ thì bị giội ngay gáo nước lạnh: 
“Đây này! Đang nửa đêm nó cầm dao giết chồng đây này!“. Không những thế, Sùng ông còn thẳng thừng cự tuyệt quan hệ thông gia với Mãng ông bằng cách dúi ngã Mãng ông rồi bỏ vào nhà.
 Xung đột kịch đã được đẩy đến mức cao nhất: Thị Kính không những bị  đẩy vào cảnh tan vỡ hạnh phúc vợ chồng, bị chửi mắng, hành hạ còn phải  chứng kiến cảnh người cha già yếu bị chính bố chồng làm cho nhục nhã,  khổ sở.
 Hình ảnh hai cha con ôm nhau khóc là hình ảnh của những người chịu  oan, đau khổ mà hoàn toàn bất lực. Đó là bi kịch điển hình của những  người dân nghèo, nhất là những người phụ nữ nông thôn trong xã hội cũ.
 8. Khi Mãng ông bảo Thị Kính về theo mình, Thị Kính đi theo cha mấy  bước nữa, rồi dừng lại, quay vào nhìn từ cái kỉ đến sách, thúng khâu,  rồi cầm lấy chiếc áo đang khâu dở, bóp chặt trong tay.
 Cử chỉ và lời hát của Thị Kính thể hiện rất nhiều ý nghĩa:
 
Thương ôi! Bấy lâu sắt cầm tịnh hảo
 Bỗng ai làm chăn gối lẻ loi
 Những cặp từ ngữ đối lập 
bấy lâu – bỗng; 
sắt cầm – chăn gối lẻ loi,…  với sắc thái ý nghĩa đối lập đã diễn tả hai trạng thái trái ngược nhau  được chuyển đổi rất đột ngột. Từ cảnh “sắt cầm tịnh hảo” (ý nói tình vợ  chồng hoà hợp đầm ấm) đến cảnh “chăn gối lẻ loi” (vợ chồng chia lìa) chỉ  là trong phút chốc. Bên này là hạnh phúc, bên kia là cảnh chia lìa. Bị  đẩy ra khỏi thế giới quen thuộc, người phụ nữ bỗng hoá bơ vơ giữa cái vô  định của cuộc đời.
 
III. RÈN LUYỆN KĨ NĂNG
 1. Tóm tắt 
 Thiện Sĩ ngồi đọc sách rồi thiu thiu ngủ. Thị Kính ngồi khâu bên  cạnh, thấy một sợi râu chồng mọc ngược, cho là không tốt, định lấy dao  khâu xén đi. Ngờ đâu Thiện Sĩ giật mình tỉnh dậy hô hoán lên. Sùng ông,  Sùng bà vốn không ưa Thị Kính, thấy thế bèn vu cho Thị Kính tội có ý  giết chồng. Rồi mặc cho Thị Kính tha hồ van xin, Sùng ông, Sùng bà đuổi  Thị Kính về nhà bố mẹ đẻ. Sùng ông gọi Mãng ông (bố Thị Kính) sang. Sau  khi làm cho hai bố con phải nhục nhã, khổ sở, hai vợ chồng bỏ vào nhà  trong để mặc hai bố con ôm nhau than khóc rồi đưa nhau về.
 
2. Cách đọc 
 Chèo được viết ra để diễn. Với một vở chèo cổ như 
Quan Âm Thị Kính,  các nhân vật đối đáp bằng những giọng điệu phức tạp (hát lệch, nói đếm,  hát sắp, nói lệch,…), rất khó để thể hiện đúng giọng điệu của nhân vật  trên sân khấu. Để khắc phục, người đọc cần căn cứ vào diễn biến sự kiện  để hình dung tâm trạng của các nhân vật, từ đó xác định giọng điệu tương  đối phù hợp (tất nhiên là chỉ với yêu cầu đọc).
 3. Trích đoạn 
Nỗi oan hại chồng thể hiện những phẩm chất tốt  đẹp cùng nỗi oan bi thảm, bế tắc của người phụ nữ và những đối lập giai  cấp thông qua xung đột gia đình, hôn nhân trong xã hội phong kiến.
 Từ nội dung của vở chèo, thành ngữ “Oan Thị Kính” dùng để nói về những nỗi oan ức quá mức và không thể nào giãi bày được.