I – KIẾN THỨC CƠ BẢN
 1. Về tác giả, xem bài 
Thái sư Trần Thủ Độ.
 2. Vua hỏi Hưng Đạo Đại Vương về kế sách giữ nước; Hưng Đạo Đại Vương  nhấn mạnh “trên dưới một dạ, lòng dân không lìa”, “khoan thư sức dân  làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách”.
 Mặc dù cha muốn Quốc Tuấn lấy được thiên hạ nhưng đến khi vận nước ở  trong tay, quyền quân quyền nước đều do ở mình, ông kính cẩn giữ tiết  làm tôi, cảm phục trước Dã Tượng, Yết Kiêu khi hai người can nên trung  hiếu, hài lòng khi con ông là Hưng Vũ Vương cho rằng không nên tranh  giành, nổi giận định trừng trị khi người con thứ Hưng Nhượng Vương Quốc  Tảng khuyên “thừa cơ dấy vận” hòng chiếm lấy thiên hạ; được phong là  Thượng quốc công có quyền phong tước song chưa bao giờ phong tước cho  một người nào. Khi sắp mất, Quốc Tuấn dặn lại con sau khi ông qua đời  phải hoả táng, bí mật chôn trong vườn để người đời không biết ở chỗ nào,  lại làm sao cho mau mục.
 Quốc Tuấn tiến cử người tài giỏi cho đất nước.
 Quốc Tuấn có tài mưu lược, anh hùng, lại một lòng giữ gìn trung  nghĩa, danh tiếng vang dội; đến nay mỗi khi đất nước có giặc, đến lễ ở  đền ông, hễ tráp đựng kiếm có tiếng kêu thì thế nào cũng thắng lớn.
 Quốc Tuấn soạn sách 
Binh gia diệu lí yếu lược, 
Vạn Kiếp tông bí truyền thư.
 3. Với nghệ thuật lựa chọn sự kiện, tình tiết đặc sắc, kết hợp giữa  lối viết sử biên niên và tái hiện chân dung nhân cách nhân vật lịch sử,  đoạn trích khắc hoạ đậm nét hình ảnh Trần Quốc Tuấn, một nhân cách vĩ  đại, bất tử trong lòng dân tộc.
 
II – RÈN LUYỆN KĨ NĂNG
 1. Tìm hiểu xuất xứ
 
Gợi ý:
 Bài Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn được trích từ sách 
Đại Việt sử kí toàn thư, quyển VI, phần Bản kỉ, Kỉ nhà Trần.
 2. Tìm hiểu bố cục đoạn trích
 
Gợi ý:
 Có thể chia đoạn trích thành bốn đoạn nhỏ:
 - Đoạn một (từ đầu cho đến 
…đó là thượng sách giữ nước vậy.): Quốc Tuấn trả lời vua về kế sách giữ nước.
 - Đoạn hai (từ 
Quốc Tuấn là con An Sinh Vương,… cho đến 
…ông kính cẩn giữ tiết làm tôi như vậy đấy.): Quốc Tuấn giữ tiết làm tôi.
 - Đoạn ba (từ 
Quốc Tuấn lại từng soạn sách khích lệ… cho đến 
Ông lo nghĩ đến việc sau khi mất như thế đấy.): Quốc Tuấn dặn con sau khi mất.
 - Đoạn bốn (phần còn lại): Quốc Tuấn tiến cử người tài giỏi giúp nước và uy lực của ông sau khi chết.
 3. Nghệ thuật kết hợp giữa lối viết sử biên niên, ghi chép các sự  việc theo diễn tiến thời gian với việc dựng chân dung nhân cách nhân vật  lịch sử bằng những sự kiện, chi tiết, việc làm, lời nói cụ thể. Tác giả  đưa ra hai mốc thời gian: 
Tháng 6, ngày 24, sao sa – thời điểm Quốc Tuấn ốm  và 
Mùa thu, tháng 8, ngày 20  – ngày Quốc Tuấn mất. Tuy nhiên, các sự kiện, chi tiết, việc làm hay  lời nói của nhân vật lại được tái hiện không theo trình tự thời gian mà  xuất hiện linh hoạt, tuỳ theo dụng ý khắc hoạ chân dung nhân cách nhân  vật lịch sử của sử gia.
 4. Nhận xét về nghệ thuật lựa chọn chi tiết, sự việc.
 
Gợi ý: Sử gia đã rất khéo léo khi lựa chọn chi tiết, sự việc để làm nổi bật đặc điểm nhân cách của nhân vật.
 Ví dụ:
 - Để chứng tỏ Quốc Tuấn là một người mưu lược, tinh thông thời thế,  có tư tưởng đúng đắn, sáng suốt, sử gia đã tái hiện kĩ lưỡng lời nói của  ông khi trả lời vua về kế sách giữ nước.
 - Để chứng tỏ Quốc Tuấn một lòng trung nghĩa, sử gia thuật lại lời  căn dặn của An Sinh Vương và việc Quốc Tuấn đem lời cha dặn ra hỏi ý  kiến hai người gia nô cùng hai người con và nhất là miêu tả những phản  ứng của ông khi nghe câu trả lời của họ; trong đó đặc biệt là thái độ,  hành động, lời nói của ông trước câu trả lời của con thứ Hưng Nhượng  Vương Quốc Tảng (
Quốc Tuấn rút gươm kể tội…; 
Định giết Quốc Tảng,…).
 - Để nhấn mạnh lòng cảm phục và ngưỡng mộ của nhân dân sâu sắc đến  mức thần thánh hoá Hưng Đạo Vương, sử gia đã đưa vào chi tiết về lòng  tin của dân chúng vào sự hiển linh của ông, nhất là chi tiết “tráp đựng  kiếm có tiếng kêu”.
 …
 5. Các dữ liệu lịch sử tiêu biểu nào được ghi lại trong đoạn trích?
 
Gợi ý:
 - An Sinh Vương hiềm khích với Trần Thái Tông, trước lúc mất dặn con  phải lấy được thiên hạ; Quốc Tuấn ghi nhớ lời dặn của cha nhưng không  cho là phải, một lòng kính cẩn giữ tiết làm tôi.
 - Quốc Tuấn soạn sách 
Binh gia diệu lí yếu lược để dạy các tướng, sưu tập binh pháp các nhà làm thành Bát quái cưu cung đồ, đặt tên là 
Vạn Kiếp tông bí truyền thư.
 - Quốc Tuấn giữ Lạng Giang, người Nguyên hai lần vào cướp, ông liên tiếp đánh bại chúng.
 - Quốc Tuấn được Thánh Tông cho phép được phong quyền phong tước cho  người khác, từ Minh tự trở xuống, chỉ có tước Hầu thì phong trước rồi  râu sau; nhưng ông chưa bao giờ phong tước cho một người nào.
 - Ngày 24, tháng 6, năm 1300, Hưng Đạo Đại Vương ốm, vua ngự tới thăm và hỏi về kế sách giữ nước.
 - Ngày 20, tháng 8, năm 1300, Hưng Đạo Đại Vương mất ở phủ đệ Vạn  Kiếp, được tặng Thái sư Thượng phụ Thượng quốc công Nhân Vũ Hưng Đạo Đại  Vương.
 6. Bình luận về nhân cách Hưng Đạo Đại Vương được thể hiện trong đoạn trích.
 
Gợi ý:
 Đoạn trích ngợi ca công đức và nhân cách của Hưng Đạo Đại Vương Trần  Quốc Tuấn: hai lần tham gia đánh bại quân Nguyên – Mông; có kế sách giữ  nước “khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc”; kính cẩn giữ tiết làm  tôi trung, không tranh giành quyền lực, không lạm dụng quyền bính; khéo  léo tiến cử người tài giỏi cho đất nước; có tài mưu lược, anh hùng, lại  một lòng giữ gìn trung nghĩa,… Đặt nhân vật trong các mối quan hệ với  vua, với nước, với cha, với con, với bề dưới,… sử gia khẳng định lòng  cảm phục và ngưỡng mộ đối với Hưng Đạo Vương với đủ các đức 
nhân, 
trí, 
nghĩa, 
dũng.
 Đoạn trích phản ánh được thái độ của nhân dân với anh hùng dân tộc,  cho thấy tư tưởng và khí phách của Hưng Đạo Vương đã trở thành bất tử  trong lòng người.