Tác giả và chủ  đề
       Lý Bạch (701-762) là một trong ba nhà thơ cự phách đời  Đường. Ông được người đời ca ngợi là "Thi tiên", để lại hơn một nghìn bài thơ  tuyệt tác. Là một kiếm khách - thi sĩ, ông coi thường danh lợi, thích ngao du  sơn thuỷ, cầu tiên phỏng đạo. Trăng, rượu, hoa, cảnh núi sông tráng lệ, tình  bằng hữu, tình quê hương lòng khao khát tự do... chứa chan trong những vần thơ  lãng mạn tràn đầy hùng tâm tráng chí. Ông có làm quan khoảng 3 năm ở kinh đô  Tràng An nhưng đã vứt bỏ áo mũ, với thanh gươm túi thơ lại lên đường... "Vọng Lư  Sơn bộc bố", "Hành lộ nan", "Tĩnh dạ tư", "Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi  Quảng Lăng", "Tảo phát Bạch Đế thành"... là những bài thơ nổi tiếng của "Thi  tiên" cho thấy một hồn thơ tuyệt đẹp.
Chủ  đề
       Bài thơ "Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng  Lăng" ghi lại một kỷ niệm sâu sắc tại lầu Hoàng Hạc, Lí Bạch tiễn Mạnh Hạo Nhiên  đi về Quảng Lăng, qua đó 
nói lên tình lưu luyến, thương  nhớ bạn.
Phân  tích
       1. Cách đưa  tiễn
     Nơi Lý Bạch đưa tiễn bạn lên đường đi xa về phía tây là  lầu Hoàng Hạc, một thắng cảnh thuộc Vũ Xương, tỉnh Hồ Bắc. Lầu Hoàng Hạc gắn  liền với huyền thoại Phí Văn Vi đắc đạo thành tiên, thường cưỡi hạc vàng bay về  đây. Bạn là Mạnh Hạo Nhiên (689-740) một nhà thơ nổi tiếng, bạn vong niên của Lý  Bạch; một kẻ sĩ hào hiệp hào hoa, phóng khoáng, ưa ngao du, rất tâm đầu ý hợp  với Lý Bạch. Hai chữ "Cố nhân" (bạn cũ, người xưa) trong câu đầu nói lên mối  quan hệ sâu sắc, lâu bền về tình bạn đẹp giữa hai nhà thơ. Đó là bạn tao nhân  mặc khách:
 "Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu"
 (Bạn từ lầu Hoàng Hạc lên  đường)
     Câu thơ dịch rất hay và thanh thoát, nhưng chữ "tây" chưa  dịch được để nói lên hướng đi của bạn. Chữ "bạn" chưa lột tả hết ý và cảm xúc  của từ "cố nhân". Trong thơ cổ, mỗi lần từ "cố nhân" xuất hiện, gợi tả bao tình  nghĩa làm rung động hồn người:
 "Dạng chu tầm thuỷ tiện
 Nhân phỏng cố nhân cư"
 
                                       (Mạnh Hạo  Nhiên)
 (Thuật dòng đủng đỉnh thuyền  bơi
 Cố nhân gần đó, qua chơi thăm  nhà)
 - "Tại ai, há dám phụ lòng cố  nhân"
     (câu 2330- 
"Truyện Kiều")
     Câu hai phát triển và hoàn thiện câu thơ thứ nhất, nói rõ  thời gian bạn lên đường và nơi bạn sẽ đến. Mạnh Hạo Nhiên lên đường vào một ngày  tháng ba (tam nguyệt) mùa hoa khói (yên hoa), xuôi về nơi phồn hoa đô hội, Dương  Châu - một trong những đô thị đẹp nổi tiếng thời Đường:
 "Yên hoa tam nguyệt há Dương  Châu"
 (Giữa mùa hoa khói Châu Dương xuôi  dòng )
     Chữ "há" có bản phiên âm là "hạ", được Ngô Tất Tố dịch  thành "xuôi dòng", thật là sáng tạo. "Yên hoa" là một thi liệu, một ẩn dụ giàu  chất thơ mà ta gặp nhiều trong Đường thi. Câu thơ không chỉ xác định thời gian  và không gian đi, đến mà còn diễn tả nỗi niềm của kẻ ở người đi. Lầu Hoàng Hạc  và Dương Châu cách xa hàng nghìn dặm như hiện lên qua vần thơ. Đằng sau hai địa  danh mà nhà thơ nói đến là cả một nỗi niềm, một không gian trống vắng vô bờ, một  trời thương nhớ biệt ly của đôi bạn tri âm. Có một bản dịch khác đọc lên nghe  rất thú vị:
 "Bạn từ lầu Hạc ra đi
 Dương Châu Hoa khói giữa kỳ tháng  ba"
 
                        (Nhữ Thành)
     Có thể nói trong hai câu "Khai thừa", yếu tố tự sự chỉ là  bề nổi của câu chữ: nỗi niềm của một tâm sự thầm kín mới là tầng sâu hàm ẩn. Nơi  "thi hội tao nhân" cũng là nơi ly biệt, đó là Hoàng Hạc Lâu. Lý Bạch đứng trên  lầu cao hay trên một cao điểm nào đó trên bến sông, dõi theo chiếc thuyền đưa  Mạnh Hạo Nhiên đến chân trời xa? Cấu trúc không gian hai điểm mút "cận - viễn"  là một thủ pháp trong hội hoạ, ta thường bắt gặp trong Đường thi, trong các bức  hoạ cổ Trung Hoa. Lý Bạch đã vận dụng thành công thủ pháp ấy tạo nên điểm nối  giữa câu 1, 2 với câu 3, 4 thành một chỉnh thể nghệ thuật hoàn hảo.
 
    2. Tình lưu luyến mến  thương
     Hai câu cuối là linh hồn của bài thơ, giãi bày những tình  cảm sâu sắc, đẹp đẽ, cảm động của Lý Bạch đối với Mạnh Hạo Nhiên. ẩn hiện sau ba  hình ảnh được miêu tả trực tiếp: dòng sông, cánh buồm, bầu trời là hình ảnh của  Lý Bạch đứng mãi nhìn hoài con thuyền đưa bạn cũ đi xa...
     Cánh buồm đơn côi, lẻ loi (cô phàm) xa dần, mờ dần (viễn  ảnh) rồi mất hút vào trời xanh, vào cuối chân trời xa (bích không tận). Hay tầm  lòng "Thi tiên" với bao 
ái ngại, lưu luyến, nhớ  thương... như những con sóng gối lên nhau, đưa tiễn con thuyền của  bạn, mất hút dần, mờ dần trên dòng sông Trường Giang?
     "Con sông sẽ trở nên rộng bao la khi cái hữu hạn của nó  đồng nhất với cái vô hạn của bầu trời. Chiếc thuyền buồm lẻ loi chở Mạnh Hạo  Nhiên đã tan biến trong dòng sông bao la đó mang đi tình bạn của Lý Bạch. Dòng  sông càng rộng, chiếc thuyền buồm càng nhỏ mất hút vào khoảng không gian vô tận.  Rõ ràng, sau khi tiễn bạn lên đường, Lí Bạch dừng lại khá lâu dõi mắt nhìn theo  chiếc thuyền buồm lẻ loi đến tận chân trời xa tít. Lí Bạch mượn cái khung cảnh  thiên nhiên sau buổi tiễn đưa để nói lên tình cảm nhớ bạn da diết....
     Lí Bạch tả về cái buồn của sự li biệt, nhưng vẫn giữ được  phong cách phóng khoáng khi ông miêu tả cái hùng vĩ của  thiên nhiên".
 (Trần Xuân Đề)
 "Cô phàm viễn ảnh bích không  tận
 Duy kiến Trường Giang thiên tế  lưu"
 (Bóng buồm đã khuất bầu không
 Trông theo chỉ thấy dòng sông bên  trời).
     Cái tiêu điểm đầy ám ảnh của bài thơ là "cô phàm viễn  ảnh". Cái tâm cảnh của Lí Bạch được diễn tả bằng hai chữ "duy kiến" - chỉ nhìn  thấy. Ta đã biết Lí Bạch sống trong thời Thịnh Đường. Lúc bấy giờ kinh tế phát  triển mạnh, thương nghiệp mở mang, nhiều đô thị sầm uất mọc lên: Tràng An, Dương  Châu, Thành Đô v..v... Trên con sông Trường Giang suốt đêm ngày thuyền bè ngược  xuôi như mắc cửi. Thế mà trong muôn ngàn cánh buồm ở trên sông, Lý Bạch "duy  kiến" chiếc "cô phàm" của bạn, nhìn mãi cho đến lúc nó mất hút trong "bầu trời  xanh biết". Chỉ sống với một tình bạn tri âm, thắm thiết thì mới có cái nhìn  "duy kiến" ấy.
     Mặc dầu chưa dịch được hai chữ "cô" (cô phàm), "bích"  (bích không tận) nhưng Ngô Tất Tố đã lột tả được "điệu Đường", "hồn Đường" của  nguyên tác, đọc lên rất thấm thía về nỗi buồn thương, lưu luyến bạn của nhà thơ  Lý bạch.
Tổng  kết
       1. Bài thơ  
"Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng  Lăng" là một trong những tuyệt tác về thơ thất ngôn tứ tuỵêt của Lý  Bạch. Vừa cụ thể vừa phổ quát cho muôn đời về nỗi buồn 
tống biệt và 
ức  hữu. Cấu trúc không gian xa - gần (cận - viễn), lấy ngoại cảnh để  biểu hiện nội tâm, ngôn ngữ, trang nhã, gợi cảm, hàm súc... đó là những yếu tố  nghệ thuật tạo nên vẻ đẹp văn chương và cốt cách của bài thơ này.
 
    2. Bài thơ đã  phản ánh một tâm hồn đẹp, một tình bạn đẹp của Lý Bạch, cũng là của những tao  nhân mặc khách đời Đường.
 
     3. Ngô  Tất Tố dịch giả bài thơ này đã tấm tắc khen: "Tất cả có 28 chữ, đủ cả chỗ ở, nơi đi, ngày đi, cảnh đi và  tấm lòng quyến luyến bè bạn. Thật là kiệt tác".