“ Chiếc thuyền ngoài xa” ra đời ba năm trước thời điểm 1986 - mốc mà bất  cứ một nhà văn Việt Nam xã hội chủ nghĩa nào cũng phải nhớ, như là năm  khai sinh và tái sinh con đường nghệ thuật của mình, ít nhất là về tư  thế cầm bút, họ được tự do. 
Nguyễn Minh Châu được coi là vị khai quốc công thần của triều đại  văn học đổi mới. Bắt đầu từ Bức tranh, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc  hành, truyện ngắn Nguyễn Minh Châu tăng dần độ rung chấn vào cơ địa văn  đàn đương thời, dự báo một cuộc bung trào nhung nham đổi mới triệt để  của văn học nghệ thuật những năm sau đó. Cuộc bung trào nhung nham này  như là một nhu cầu nội sinh, xuất phát từ chính bản thân văn học, mặt  khác, từ chính những biến đổi lớn lao của đời sống xã hội. Nhà văn bắt  buộc phải kiểm soát những nhu cầu ấy, rời xa nó tức là chuốc lấy cho  mình con đường hẹp, mọi sáng tác chỉ như một phế liệu của nghệ thuật mà  thôi. 
Nguyễn Minh Châu ý thức rất rõ nhu cầu của mình và nhu cầu của văn  học. Ông từ giã chính ông, truy đuổi những cách khám nghiệm đời sống  dưới góc nhìn và phương tiện mới. Trong Bức tranh và Người đàn bà trên  chuyến tàu tốc hành, ít nhất, sự truy đuổi ấy đã đặt Nguyễn Minh Châu  trước một thử thách triết học: sự tự nhận thức. Nhận thức không chỉ diễn  ra dưới công năng của tư duy lí trí, mà dường như còn phải diễn ra bằng  nhưng luồng xung của tiềm thức, của vùng sâu vùng sáng và vùng tối  trong tâm hồn. Cơ mà, cũng phải thấy, đôi khi ông bất lực để lí giải, lí  giải cho nhân vật và lí giải cho hiện thực. Nhân vật của ông vượt qua  những giăng bẫy hiện thực mà ông chân thật dựng nên, rơi vào trạng thái  “bất khả tri”. Sự tự nhận thức trở nên đau đớn, trở thành một vết thương  sẵn sàng thức tỉnh. Ai nào biết được khuôn mặt trong bức tranh kia là  khuôn mặt gì của thời đại, của thế hệ, của từng cá nhân; ai biết được  người đàn bà tên Quì ấy mắc một chứng bệnh cá nhân hay của thế hệ, của  thời đại…?. Không dễ dàng đưa ra kết luận, cũng như các nhân vật kia,  không dễ dàng dập tắt ngọn lửa tự nhận thức trong mình, dập tắt đồng  nghĩa với thiêu rụi sự sống. 
“Chiếc thuyền ngoài xa” nằm trong mạch sáng tác đòi hỏi cả độc giả  và nhà văn phải nhận thức lại hiện thực. Hiện thực bây giờ không đơn  giản là một vết xước rớm máu trên cánh tay trắng đẹp của cô gái thanh  niên xung phong kia mà có lẽ, phải là vết xước trong tâm hồn. Ở đó, mỗi  cá nhân là một chỉnh thể, một sở hữu của vết xước, bảo toàn và chưng cất  nó khiến sự nhận thức mãi mãi không đưa ra một hệ số bằng lòng. 
Câu chuyện bắt đầu từ việc Phùng, phóng viên ảnh, đi “săn” một tấm  hình chụp cảnh bình minh trên biển. Tấm hình kia phải là một tác phẩm  nghệ thuật, dĩ nhiên, như anh nhận thức, cần tránh lặp lại, nhàm chán và  quen thuộc. Phùng rời Hà Nội gần sáu trăm cây số, “phục” ở một bờ biển,  nơi vẫn còn lưu dấu cuộc chiến tranh: đó là bãi chiến trường. Tâm thế  Phùng là sẵn sàng chờ đợi, anh quen được Phác, một cậu bé thông minh ở  vùng biển đó. Sau gần tuần lễ, anh chụp được khá nhiều tấm hình cảnh ngư  dân đánh mẻ lưới cuối cùng lúc bình minh lên. Nhưng tấm hình để đời,  kiệt tác mà anh hằng mong muốn thì chưa có. Nghệ thuật nhiếp ảnh, qua  cách hành xử của Phùng, ít nhiều là thứ quà tặng của thiên nhiên. 
Và rồi thì anh cũng có một cảnh trời cho: “trước mặt tôi là một bức  tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe  nhòe vào bầu trời sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng do ánh  mặt trời chiếu vào… Toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều  hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích khiến đứng trước  nó tôi trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào”.  Những cảm xúc nghệ thuật mà Phùng đón nhận trước vẻ đẹp thiên nhiên quả  làm cho ta cảm động. Nó là niềm hạnh phúc, nỗi sung sướng của kẻ luôn  sẵn ý thức và trách nhiệm với con đẻ tinh thần mà mình hằng tâm nuôi  dưỡng. Phùng rơi vào trạng thái “lên đồng”, một trạng thái cần có trước  lúc sinh thành những cảm xúc sáng tạo: “trong giây phút bối rối ấy, tôi  tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám  phá cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Vào khoảnh khắc đó, Phùng  hoàn toàn thành tâm với nghệ thuật, nó vừa là cái toàn thiện, cái đạo  đức, cái trong ngần, vừa là hạnh phúc…Anh được nó nâng đỡ, ban tặng đồng  thời sáng tạo nó, cảm nhận nó. Và trong chốc lát anh “bấm liên thanh  một hồi hết một phần tư cuốn phim”. “ Cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh  vừa mang lại” trong ống kính có lẽ là cái đẹp đạo đức của thiên nhiên.  Thiên nhiên, ngay cả khi dữ dội nhất, tàn nhẫn nhất, người ta vẫn thu  được khoảnh khắc rất đẹp: núi lửa, tia chớp, sóng thần, bão cát … Thiên  nhiên là bản thể tự nó. Cái gọi là “vẻ đẹp” kia chẳng qua là một chuỗi  những thỏa thuận nằm ngoài nó, do con người tạo nên. 
Nhưng câu chuyện đột nhiên chuyển sang một hướng khác, sau khoảnh  khắc trời cho ấy, Phùng rơi vào một khoảnh khắc, một tình huống “hiện  thực cuộc sống” ban cho. Chính từ lúc này, Phùng vấp phải một thách đố  khác, có lẽ còn nghiệt ngã hơn cả sự sáng tạo nghệ thuật – thách đố lí  giải, nhận thức hiện thực. 
Trước cảnh tượng liền kề với khoảnh khắc nghệ thuật, Phùng kinh ngạc  đến mức “trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng há mồm ra mà nhìn. Thế rồi  chẳng biết từ bao giờ, tôi đã vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào  tới”. Phùng lao tới nơi người đàn ông “tấm lưng rộng và cong như lưng  một chiếc thuyền, hàng lông mày cháy nắng rủ xuống hai con mắt đầy vẻ  độc dữ” đang dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà  “cao lớn với những đường nét thô kệch”, “lão vừa đánh vừa thở hồng hộc,  hai hàm răng nghiến ken két”… Nhưng Phùng đã bị cản lại bởi “bóng một  đứa con nít”, đó là Phác, con trai của cặp vợ chồng kia. Phác giật chiếc  thắt lưng từ tay người đàn ông, lão “dang thẳng cánh tay cho thằng bé  hai cái tát”. Rồi lão lẳng bặng bỏ đi về phía bờ nước để trở về thuyền.  Kết thúc cái cảnh tượng ấy, “bãi cát lại trở về với vẻ mênh mông và  hoang sơ”, chỉ còn Phùng, cậu bé Phác và tiếng sóng ngoài khơi, tất cả  chìm vào cõi im lặng… 
Có lẽ, đó là một hiện thực “quái đản”. Một hiện thực hiển nhiên mà  không thể lí giải. Người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng sự hành hạ của  chồng. Người chồng đánh đập vợ tàn nhẫn như một thói quen, vô cảm và bản  năng. Những đứa con bất lực nhìn cảnh bạo lực diễn ra ở chính cha mẹ  chúng. Tất cả đều im lặng, triền miên ở ngay nơi chiến tranh vừa đi qua.  Tất cả đều diễn ra đằng sau cái vẻ đẹp đơn giản và toàn bích của thiên  nhiên. Một hiện thực quái đản xâm lấn ngay sau phút giây hạnh phúc của  người nghệ sĩ. Một nỗi đau và dìm nén nỗi đau, một bình yên và phá hoại  bình yên, một dư chấn và một khoảng lặng cứ đan cài nhau giữa muôn trùng  tiếng sóng biển. Và rồi, cũng như trong câu chuyện cổ quái đản, tất cả  đều biến mất, tất cả cứ lặp lại… 
Lần thứ hai chứng kiến, Phùng trở thành người hùng, anh đánh quật gã  đàn ông vũ phu bằng cú đánh của người “không cho phép hắn đánh một  người đàn bà, cho dù đó là vợ và tự nguyện rúc vào xó bãi xe tăng kín  đáo cho hắn đánh …”. Phùng nhân danh một người lính- những người đã đổ  máu để giành lại bình yên cho đồng bào mình, chăng? Hay ở anh còn có một  động cơ “đạo đức” của người nghệ sĩ - người biết thưởng thức và giữ gìn  vẻ đẹp toàn thiện chứ không phải là toàn ác, tha hóa? 
Phùng đã nhờ Đẩu, người bạn đồng ngũ nay là chánh án huyện phụ trách  địa bàn, can thiệp vào trường hợp gia đình vợ chồng thuyền chài này.  Những cú đánh của Phùng chỉ là phản ứng nhất thời, anh cần đến tiếng nói  của một quan tòa. Nhưng rút cuộc, cả Đẩu và Phùng chỉ như những đứa  trẻ, đi hết bất ngờ rồi phẫn nộ rồi im lặng trước lời thú tội, kể lể của  người đàn bà: “Đây là chị nói thành thực, chị cảm ơn các chú. Lòng các  chú tốt, nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn… cho nên các chú đâu  có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc”. Hóa ra, ở  người đàn bà xấu xí và tội nghiệp này là cả một hiện thực “bất khả tri”.  Bà nhẫn nhục chịu đựng sự hành hạ của chồng như chức phận mà mình có  được, thỏa nguyện vì chức phận đó. Trong thâm tâm bà, những nỗi đau đớn  mà mình gánh chịu xứng đáng như thế vì bởi bà… đẻ nhiều con quá. Điều đó  đồng nghĩa với cái đói, cái nghèo khổ còn bám riết lấy gia đình này.  Nhưng thực tế, cái đói, cái nghèo khổ đâu chỉ bởi bà đẻ nhiều, mà nó  cũng là một thiên chức rất đàn bà thôi. Trong lời thú tội ngậm ngùi,  chân thật và tê tái của bà, có những câu hỏi không dễ trả lời, những mâu  thuẫn khó giải thích: để yêu thương và sống qua muôn nỗi khó khăn, cơ  cực, đôi khi người ta phải chấp nhận sự tàn nhẫn, tha hóa, phi đạo đức. 
Người chồng vốn dĩ hiền lành, nghĩa hiệp. Sự khốn cùng, mong manh  của đời sống chài lưới đã biến ông ta thành vũ phu. Có phải là một Chí  Phèo, một quĩ dữ bước ra từ cái làng chài hẻo lánh kia không? Tại sao,  dưới xã hội mới này, nơi mà “giấc mơ đại tự sự” đã lan tỏa trong mọi  không gian nhỏ hẹp của đời sống, vẫn có những mảnh đời đau đớn, tha hóa  kia? 
Hành động vũ phu hay là sự bế tắc, hay là sự giải thoát của những  con người tội nghiệp?. “Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra  đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống rượu…Sau này con cái lớn lên,  tôi mới xin được với lão…đưa tôi lên bờ mà đánh…”. Rõ ràng, đây là một  giải thoát trong bế tắc, một giải thoát đẫm nước mất và đau đớn. 
Cả Đẩu và Phùng đều thốt lên: “Không thể nào hiểu được, không thể  nào hiểu được”. Họ không thể hiểu tại sao hai con người nhỏ bé kia lại  chấp nhận sống và yêu thương bằng kiểu lạ lùng như vậy. Dù lời kể của  người đàn bà phần nào giúp họ nhận ra những ẩn ức thẳm sâu nhưng họ vẫn  dừng lại trên bờ vực của sự nhận thức hiện thực. Họ chưa thể nào dò thấu  đáy sâu của nỗi ẩn ức kia cũng như hiện thực đang diễn ra trước mặt họ. 
Tình huống mà Phùng không lường trước trong chuyến đi này có phải là  tình huống dựng của nhà văn? Nhà văn đặt nhân vật và độc giả vào một  tình huống phải nhận thức. Nhưng nhân vật đã không lí giải được hiện  thực, tiếng nói của quan tòa cũng trở nên lạc lõng. Họ chấp nhận nó bằng  những thỏa thuận bên ngoài. Cơn bão biển khơi lại nổi lên, biển động,  gia đình thuyền chài này rất có thể lại phải nhịn ăn, đói rách. Cái cảnh  tượng thường tình kia, sẽ lại xẩy ra. “Con sói con” - cậu bé Phác, lại  phải thủ một con dao trong mình để trấn áp người cha, trấn áp người đàn  ông lầm lũi kia… Những dự cảm buồn như vết xước trở đi trở lại trong tâm  hồn. Những tâm hồn đầy vùng tối. 
Phùng đã có một tấm hình để đời, được treo ở nhiều nơi, nhất là  trong các gia đình sành nghệ thuật. Nhưng ám ảnh về cảnh tượng đằng sau  bức ảnh thì không thể xóa mờ. Đằng sau vẻ đẹp vĩnh hằng kia cũng là nỗi  đau vĩnh viễn. Nghệ thuật đã che giấu, khỏa lấp cái tha hóa, phi đạo  đức? Hay nghệ thuật “bất khả tri” trước hiện thực ?. Cũng như chiếc  thuyền ngoài xa, nghệ thuật chỉ có thể nắm bắt được cái bóng của nó, cái  bóng của hiện thực. Vẻ ngoài của nghệ thuật, đôi khi như màn sương làm  “mờ hóa” khả năng tri nhận ở chúng ta. Bất khả tri trở thành niềm day  dứt của người nghệ sĩ. Với người nghệ sĩ, thiên chức là ngưỡng vọng và  sáng tạo một vẻ đẹp toàn thiện nhưng sẽ là kẻ tội đồ nếu vẻ đẹp ấy làm  che khuất và quên đi những bất hạnh trong đời. Cái đẹp không chỉ là đạo  đức, nó là sự phản tỉnh. 
Cá nhân Phùng, Đẩu sẽ không đủ sức lí giải, chấm dứt bi kịch của gia  đình thuyền chài kia. Họ chưa đủ làm ánh sáng để xua đi vùng tối trong  tâm hồn những con người bé nhỏ, khổ đau. Trước vẻ đẹp của thiên nhiên,  Phùng hoàn toàn thấu nhận. Trước số phận của người đàn bà, Phùng là  người ngoài cuộc. Mâu thuẫn đó dường như đeo đẳng suốt hành trình sáng  tạo của nghệ thuật. 
“Chiếc thuyền ngoài xa” là một truyện ngắn giàu chất điện ảnh do có  sự gia tăng của kiểu chi tiết – hình ảnh. Trường đoạn Phùng chứng kiến  người chồng hành hung vợ là trường đoạn được kể bằng hình ảnh. Nó diễn  ra dưới một cú quay toàn cảnh kéo dài. Kịch tính đến nghẹt thở, bất ngờ  đến choáng váng. Yếu tố “động” của chi tiết được bao bọc trong sự yên  tĩnh của cảnh, cảm giác máy quay không di chuyển. Lời thoại rút giảm tối  đa, những hình ảnh khô khốc và bạo liệt. Tiếng nghiến răng ken két của  gã đàn ông vũ phu, tiếng thắt lưng quật tới tấp vào người đàn bà ngưng  đọng giữa tiếng sóng biển. Thứ âm thanh dẫn dắt cảm xúc người đọc -  người xem vào những mao mạch trí nhớ khác nhau, hoặc rát buốt hoặc tê  cóng hoặc câm nín. Kết thúc trường đoạn, cảnh vật trở nên bình lặng, yên  ả như chưa hề nhuốm sắc thái bạo lực khốc liệt. Một sự trả về hờ hững  của thiên nhiên. Ống kính dừng lại ở một khoảnh khắc bình yên mà nhức  buốt tâm can…Sử dụng yếu tố điện ảnh, Nguyễn Minh Châu tạo nên hiện thực  gần như một cuốn phim tư liệu, chân thực và xúc động. 
Là kiểu truyện ngắn mở ra tình huống nhận thức, Nguyễn Minh Châu còn  sử dụng tính biểu tượng. Biểu tượng từ việc đặt tên nhân vật (Phùng -  gặp gỡ, chứng kiến, ngụ ý người quan sát; Đẩu - vị phán quyết; Phác - sự  thuần hậu, ngụ ý một phẩm chất của nghệ thuật; đứa con gái của vợ chồng  thuyền chài – nàng tiên cá, ngụ ý vẻ đẹp bí ẩn mà cuộc sống ban tặng )  đến biểu tượng trung tâm: chiếc thuyền ngoài xa. Chiếc thuyền ngoài xa  hay là sự bất khả tri, là một hiện thực khác chìm khuất sau những điều  chúng ta có thể kiểm soát và chứng kiến được? Chiếc thuyền ngoài xa mãi  mãi là một khát vọng tìm kiếm, với tới để níu giữ, để nhìn lại. Khi  chiếc thuyền vẫn còn ở ngoài xa, những định giá và huyễn tưởng về nó vẫn  chỉ nằm trong một lớp sương mờ ảo mà thôi. 
Năm 1983, khi Chiếc thuyền ngoài xa ra đời, đất nước vẫn chưa thoát  khỏi dư chấn của chiến tranh, đời sống nhân dân vô cùng khó khăn. Số  phận cá nhân nằm im dưới lớp băng hà của “giấc mơ đại tự sự”. Với những  dự cảm thời cuộc sắc bén và tài năng nghệ thuật của mình, Nguyễn Minh  Châu đã giúp lớp băng hà kia có những vết nứt cần thiết. Vết nứt để nhìn  ra vùng tối, và có thể, đón nhận vùng sáng.
Tham khảo thêm bài:
