1/ Cảm nhận về Đất nước:
.a) Đoạn thơ về Đất nước bắt đầu một cách rất bình dị, tạo một sự  gần   gũi, thân thiết mà không bắt đầu một cách trang trọng. Đất nước ở  ngay   trong cuộc sống của mỗi gia đình chúng ta, từ lời kể chuyện của  người   mẹ, miếng trầu của bà, các phong tục tập quán quen thuộc (tóc mẹ  thì bới   sau đầu) cho đến tình nghĩa thuỷ chung của cha mẹ, hạt gạo ta  ăn hàng   ngày, cái kèo cái cột trong nhà… Tất cả những điều đó làm cho  Đất nước   trở thành cái gần gũi, thân thiết, bình dị trong cuộc sống  hằng ngày  của  con người:
.“Khi ta lớn lên Đất nước đã có rồi
.Đất nước có trong những cái ngày xửa ngày
.xưa mẹ thường hay kể.
.Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
.Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”.
.
.
b) Tiếp đó là sự cảm nhận Đất nước từ các phương diện địa lý –  lịch  sử.  Tác giả khai thác các thành tố của Đất nước. Việc tìm về từ  gốc của  từ  Đất nước là để khai thác cách
.quan niệm có nét riêng biệt của dân tộc ta về khái niệm này. Ở nhiều    ngôn ngữ khác, Đất nước thường được cấu tạo từ những gốc là nơi sinh,    quê hương… Nhưng trong tiếng Việt, Đất nước gồm hai yếu tố hợp thành    “Đất” và “Nước”. Cách truy tìm từ gốc, cách “chiết tự” có thể dẫn đến    nguy cơ hiểu sai lạc ý nghĩa, hoặc máy móc giản đơn khi giải thích các    khái niệm khoa học. Nhưng ở đây, tư duy nghệ thuật cho phép cách phân    tích và cảm nhận theo các phương diện không gian và thời gian, địa lý  và   lịch sử (Thời gian đằng đẳng – Không gian mênh mông). Từ huyền  thoại   Lạc Long Quân và Âu Cơ, truyền thuyết Hùng Vương và ngày giỗ Tổ  đã nói   lên chiều sâu lịch sử của Đất nước Việt Nam. Về mặt không gian  địa lí,   Đất nước không chỉ là núi sông, rừng bể (con chim Phượng  Hoàng… con cá   Ngư Ông,…) mà còn là cái không gian rất gần gũi với cuộc  sống mỗi người.   “Đất là nơi anh đến trường, Nước là nơi em tắm. Đất  nước là nơi em  đánh  rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm” – Và cũng là  không gian sinh  tồn của  cộng đồng dân tộc qua bao thế hệ (Những ai đã  khuất. Những ai  bây giờ.  Yêu nhau và sinh con đẻ cái. Gánh vác phần  người đi trước để  lại. Dặn dò  con cháu chuyện mai sau…).
.Tác giả sử dụng sáng tạo các yếu tố của ca dao, truyền thuyết dân   gian.  Có lúc lấy lại từng phần của câu ca dao, nhưng phần nhiều là sử   dụng ý,  hình ảnh tạo nên hình tượng thơ mới, vừa gần gũi vừa mới mẻ   (cha mẹ  thương nhau bằng rừng cay muối mặn… Đất nước là nơi em đánh rơi   chiếc  khăn trong nỗi nhớ thầm…)
.Ở trên chiều rộng của không gian địa lí và chiều dài của thời gian   lịch  sử. Đất nước được cảm nhận như sự thống nhất các phương diện văn   hóa,  truyền thống, phong tục, cái hàng ngày và cái vĩnh hằng, trong đời   sống  mỗi cá nhân và cả cộng đồng…
.
.c) Đến đây, ý thơ dẫn đến điểm tập trung những suy nghĩ, cảm xúc  về  Đất  nước, cũng là điểm mấu chốt của tư tưởng, phần một của bài:
.“Trong anh và em hôm nay – Đều có một phần Đất nước”
.Đất nước không ở đâu xa mà kết tinh, hóa thân trong cuộc sống của mỗi    con người. Sự sống mỗi cá nhân không chỉ là riêng của cá nhân mà còn là    của Đất nước, bởi mỗi cuộc đời đều được thừa hưởng những di sản văn   hóa  tinh thần và vật chất của dân tộc, của nhân dân, mỗi cá nhân phải   có  trách nhiệm gìn giữ, phát triển nó, truyền lại cho các thế hệ tiếp   theo.
.Đoạn thơ kết thúc bằng một lời nhắn nhủ với thế hệ trẻ về trách nhiệm    với đất nước, tuy là đoạn thơ chính luận nhưng người đọc không cảm thấy    là những lời “giáo huấn” mà chỉ như một lời tự nhủ, tự dặn mình, chân    thành, tha thiết…
.“Em ơi em, Đất nước là máu xương của mình
.Phải biết gắn bó và san sẻ
.Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
.Làm nên đất nước muôn đời…”
.
.2/ Tư tưởng Đất nước của nhân dân
.Tư tưởng cơ bản của phần này là tư tưởng Đất nước của nhân dân.
.Đây là điểm qui tụ mọi cách nhìn về Đất nước trong phần này, cũng là    đóng góp của Nguyễn Khoa Điềm làm sâu sắc thêm ý niệm về Đất nước của    thơ chống Mĩ.
 .
.a) Cách nhìn của tác giả về những thắng cảnh, về địa lí là một  cách   nhìn có chiều sâu và là một phát hiện mới mẻ (đoạn đầu của phần  hai, từ   “những người vợ nhớ chồng…” đến “Những cuộc đời đã hóa núi  sông ta…”).   “Những cảnh quan thiên nhiên kì thú (đá Vọng Phu, núi Con  Cóc, núi Con   Gà hay hòn Trống Mái v.v…) gắn liền với con người,
.được tiếp nhận, cảm thụ qua tâm hồn và lịch sử dân tộc. Nếu không có    người vợ chờ chồng qua các cuộc chiến tranh và li tán thì cũng không có    sự cảm nhận về núi Vọng Phu, cũng như thế nếu không có truyền thuyết    Hùng Vương dựng nước thì cũng không thể có sự cảm nhận như vậy về vẻ    hùng vĩ của vùng núi đồi xung quanh đền vua Hùng…) Đoại thơ bằng cách    qui nạp hàng loạt hiện tượng để đưa đến một khái niệm sâu sắc: “Và ở đâu    trên khắp ruộng đồng gò bãi, chẳng mang một hình dáng, một ao ước,  một   lối sống ông cha. Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng  thấy,   những cuộc đời đã hóa núi sông ta…)
.
.b) Khi nghĩ về bốn nghìn năm của đất nước, nhà thơ không điểm  lại các   triều đại, các anh hùng nổi tiếng mà nhấn mạnh đến vô vàn  những con   người vô danh, bình dị:
.Có biết bao nhiêu người con gái con trai
.Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
.Họ đã sống và chết,
.Giản di và bình tâm
.Không ai nhớ mặt đặt tên
.Nhưng họ đã làm ra Đất nước
.Tiếp đó bài thơ khai triển thêm ý này: Những con người vô danh và bình    dị ấy đã giữ gìn và truyền lại cho các thế hệ sau mọi giá trị văn hóa,    văn minh tinh thần và vật chất của đất nước, của dân tộc: hạt lúa,   ngọn  lửa, tiếng nói, ngôn ngữ dân tộc, cả tên xã tên làng… Họ cũng là   những  người khi “có ngoại xâm thì chống ngoại xâm, có nội thù thì vùng   lên  đánh bại”
.“Họ đã giữ và truyền cho ta hạt giống ta trồng
.Họ truyền lửa cho mỗi nhà, từ hòn than qua rơm con củi
.Họ truyền giọng điệu của mình cho con tập nói
.Họ gánh theo tên xã tên làng trong mỗi cuộc di dân”
.Nói đến Đất nước và dân tộc là nói đến lãnh thổ chủ quyền và văn hóa.    Nhưng tất cả các giá trị đó lại được tạo nên bởi người, bởi nhân dân.    Trong từng tấc đất, từng di tích lịch sử, từng câu hò xứ sở, quan họ  quê   hương… đâu đâu cũng hiện lên bóng dáng nhân dân – giá trị cao nhất    trong mỗi giá trị – “Nhân dân vô danh nhưng thật là vĩ đại – Họ đã  làm   ra mọi của cải giá trị vật chất tinh thần, làm ra đất nước”.
.
.c) Mạch suy nghĩ của bài thơ dẫn đến tư tưởng cốt lõi. Điểm hội  tụ và   cũng là cao điểm của cảm xúc trữ tình ở cuối đoạn trích này.  “Đất nước   này là Đất nước của Nhân dân” Cũng từ điểm này chúng ta hiểu  thêm những  ý  thơ trên. Và khi nói đến Đất nước của Nhân dân, một cách  tự nhiên,  tác  giả trở về với nguồn phong phú đẹp đẽ của văn hóa, văn  học dân gian  mà  tiêu biểu là trong ca dao. Vẻ đẹp tinh thần của nhân  dân, hơn đâu  hết,  có thể tìm thấy ở đó trong ca dao, dân ca, truyện cổ  tích. “Đất  nước của  Nhân dân, Đất nước của ca dao thần thoại”. Câu  thơ ở hai vế  song song,  đồng đẳng là một cách định nghĩa về Đất nước…  thật giản dị  mà cũng thật  độc đáo. Trong cả kho tàng ca dao, dân ca, ở  đây tác giả  chỉ chọn lọc ba  câu để nói về ba phương diện quan trọng  nhất của truyền  thống nhân dân,  dân tộc: thật say đắm trong tình yêu  (yêu em từ thuở  trong nôi) quý  trọng tình nghĩa (quý công cầm vàng  những ngày lặn lội)  nhưng cũng thật  quyết liệt trong căm thù và chiến  đấu (trồng tre đợi  ngày thành gậy, đi  trả thù mà không sợ dài lâu…)
.Chúng ta gặp lại cách vận dụng vốn ca dao dân ca một cách sáng tạo,    không lặp lại nguyên văn mà chỉ sử dụng ý và hình ảnh của câu ca dao,    vẫn gợi nhớ đến câu ca dao nhưng lại trở thành một câu, một ý thơ gắn bó    trong mạch thơ của bài.
.Tư tưởng Đất nước của Nhân dân thật ra đã có manh nha từ trong lịch sử    xa xưa. Những nhà tư tưởng lớn, những nhà văn lớn dân tộc đã từng nói    lên nhận thức về vai trò của nhân dân trong lịch sử (Nguyễn Trãi,   Nguyễn  Đình Chiểu, Phan Bội Châu) hoặc cảm thông sâu sắc với số phận   của nhân  dân, của mọi lớp người trong nhân dân (Nguyễn Du với văn Chiêu   hồn,  Truyện Kiều). Đến nền văn học hiện đại, được soi sáng bằng tư   tưởng xã  hội chủ nghĩa, bằng quan điểm Mác-xít về nhân dân và nảy nở từ   trong  thực tiễn vĩ đại của cuộc cách mạng mang tính nhân dân sâu sắc,   văn học  từ sau Cách mạng Tháng Tám đã đạt đến một nhận thức sâu sắc  về  nhân dân  và cảm hứng về đất nước mang tính dân chủ cao. (Thơ ca  kháng  chiến chống  Pháp là một ví dụ tiêu biểu. Có thể nhớ đến các bài:  Tình  sông núi của  Trần Mai Ninh, Đất nước của Nguyễn Đình Thi, Bên  kia sông  Đuống của  Hoàng Cầm…). Đến giai đoạn chống Mỹ, tư tưởng Đất  nước của  Nhân dân một  lần nữa được nhận thức sâu sắc thêm bởi vai trò  và những  đóng góp to  lớn, những hi sinh vô vàn của nhân dân trong cuộc  chiến  tranh dài lâu và  cực kỳ ác liệt này.
.Tư tưởng ấy được các nhà thơ trẻ chống Mỹ phát biểu một cách thấm thía    qua sự trải nghiệm của chính mình như những thành viên của nhân dân,    cùng chia sẻ mọi gian lao, hi sinh và được che chở, đùm bọc, nuôi dưỡng    của nhân dân (Hơi ấm ổ rơm của Nguyễn Duy, các trường ca Những người  đi   tới biển của Thanh Thảo và Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh đều  tập   trung nói về những gương mặt của các con người bình thường, vô  danh   trong nhân dân và không phải ngẫu nhiên mà đều bắt đầu bằng hình  ảnh   người mẹ).
.Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm góp thêm một thành công trong dòng thơ   về  Đất nước thời chống Mỹ, làm sâu sắc thêm nhận thức về Nhân dân và   Đất  nước.
Tham khảo thêm:
DOWNLOAD
DOWNLOAD