Tìm kiếm chủ đề bài viết ở đây trước khi hỏi TTB -Tìm bằng tiếng việt có dấu càng chính xác-Ví Dụ:Đánh vào Hwang mi ri để tìm truyện tác giả này
 
Hãy ủng hộ mua bất kỳ sản phẩm trên shopee.vn truy cập Vào Đây tìm sản phẩm rồi mua, mỗi lượt mua đều giúp duy trì website hoạt động miễn phí
KHÔNG XEM ĐƯỢC ẢNH TRUY CẬP ĐỔI DNS CLICK VÀO ĐÂY 
 
   	  	 
 
 
		 
	 
 
  
	
	
		
	
	
	| 
		
		 
			
				28-09-2012, 03:26 PM
			
			
			
		 
	 | 
 
	
		
        
        
		
		        
 
                                |   	
                              
				
 				 Đầy Tớ Của Nhân Dân 
	
                 
 Facebook: https://www.facebook.com/tuthienbaocom 
		
 | 	
	
			
			 | 
	
			
	
                              
					  
					
					
					
				
			 | 
		  |  
		 
		
	 | 
 
	
	
		
	
		
		
			
			
				 
				Vũ Như Tô - Một chặng đường trường
			 
			 
			
		
		
 
 
 
 
 
 
Cách đây vừa tròn sáu mươi năm, đúng  vào dịp kỷ niệm Tết Độc lập lần thứ  hai (tháng 9/1946), vở kịch "Vũ Như  Tô" của Nguyễn Huy Tưởng được xuất  bản. Với tất cả sự khiêm tốn của  mình, tác giả đã không kìm được mình  ghi trong nhật ký: "Vũ Như Tô đã  xuất bản. Khá bằng lòng. Kịch vĩ đại”. 
Nhưng đồng thời ông cũng chua thêm một lời bình, như ông vẫn thường có   cách nhìn khắt khe về các tác phẩm của mình: “Chỉ tiếc rằng nó cổ”... 
Cái mà Nguyễn Huy Tưởng gọi là “khá bằng lòng” ấy, cũng có thể dùng để   nói về một vở kịch khác của ông ra trong cùng năm. Đó là kịch Bắc Sơn mà   đến nay cũng vừa tròn sáu mươi năm tuổi. Xin được dừng lại đôi chút để   nói thêm về tác phẩm này. Với hai đêm diễn đầu tiên vào đầu tháng  4/1946  trên sân khấu Nhà hát lớn Hà Nội, vở kịch Bắc Sơn của Nguyễn Huy  Tưởng  đã thu được thành công vang dội. Các báo đương thời nhất trí  đánh giá:  “Bắc Sơn xứng đáng là vở kịch cách mạng thành công nhất từ  trước tới  nay”, “Bắc Sơn là một vở kịch cách mạng mà không có tính cách  tuyên  truyền”, “Bắc Sơn mở ra một nền kịch mới”... Dễ hiểu là thành  công này  của Nguyễn Huy Tưởng - mà cũng là thành quả chung của nền văn  nghệ mới -  cần được nhanh chóng phát huy. Như một hiệu ứng lan truyền,  khắp nơi  người ta diễn kịch dựng kịch Bắc Sơn, từ Văn Giang đến Nam  Định, từ Vinh  đến Hội An... Đặc biệt, tháng 7/1946, nghĩa là chỉ ba  tháng sau ngày  công diễn, Bắc Sơn được Hội Văn hóa cứu quốc xuất bản.  Đó là một ấn phẩm  có thể nói là đáng mơ ước với bất cứ tác giả nào:  ngoài phần kịch bản  của tác giả, ấn phẩm còn kèm theo lời nói đầu của  Nguyễn Đình Thi, phụ  bản màu của Trần Đình Thọ, bản nhạc Bắc Sơn của  Văn Cao (được dùng làm  nhạc nền cho vở diễn), ấn phẩm cũng trích đăng  hơn chục trang các bài  báo phê bình kịch Bắc Sơn mà âm hưởng chung là  khẳng định giá trị tư  tưởng và nghệ thuật của tác phẩm. Tất cả được in  trên một thứ giấy trơn  nhẵn, bìa dày, khổ sách cao toát lên vẻ sang  trọng, trang nhã. Ngoài các  bản thường, còn có một số bản được đánh số  kèm theo chữ ký tác giả... 
Trở lại với kịch Vũ Như Tô, cũng là một ấn phẩm khá đẹp, ít nhất là so   với lúc bấy giờ. Cuốn sách được in trên giấy lụa, bìa dày, khổ rộng   ngang trông khá là bề thế. Ngoài các bản thường, còn có thêm một số bản   in bằng giấy vêlanh mịn màu kem, cũng được đánh số kèm chữ ký tác giả.   Tuy nhiên, điều đáng lưu ý hơn cả ở ấn phẩm này, theo chúng tôi lại là   một chi tiết không thuộc về hình thức, mà là ở cách đề tên tác giả ở   ngoài bìa. Song song với ba chữ Nguyễn Huy Tưởng, là một hàng chữ kèm   theo: Hội văn hóa cứu quốc Việt Nam. 
Chúng ta nên hiểu về điều này như thế nào? 
Khác với Bắc Sơn, Vũ Như Tô không phải do Hội Văn hóa cứu quốc Việt Nam   xuất bản. Vở kịch lịch sử này của Nguyễn Huy Tưởng được xuất bản trong   Tủ sách kịch Hoa Lư, một tủ sách chuyên xuất bản các tác phẩm kịch của   các tác giả thuộc mọi khuynh hướng. Ta có thể thấy được điều này qua  mấy  tên sách sắp ra trong cùng tủ sách, được quảng cáo ở bìa 4 cuốn  kịch Vũ  Như Tô: đó là các vở Thái Nguyên của Hoàng Việt Sinh, Lam Sơn  họp mặt,  kịch thơ của Nguyễn Xuân Trâm, Nước lụt, kịch của nhà văn  Trung Quốc  Điền Hán, do Thế Lữ dịch. Bên trong, ở trang cuối sách khép  lại vở kịch  có đề hàng chữ: “Tác giả giữ bản quyền”. Nghĩa là, tác giả  có toàn quyền  quyết định để tên mình như thế nào theo ý muốn, và việc  ghi danh mình  song song với Hội Văn hóa cứu quốc rõ ràng là ý nguyện  của Nguyễn Huy  Tưởng. 
Vậy tại sao Nguyễn Huy Tưởng lại quyết định như thế? 
Phải chăng ông làm thế vì lợi ích cá nhân mình? Phải chăng ông muốn mượn   danh nghĩa Hội Văn hóa cứu quốc, cơ quan của đoàn thể để khẳng định vị   thế chính trị của mình? Hay phải chăng ông muốn mượn tiếng Hội hòng  làm  tăng uy tín cho tác phẩm của mình? Theo chúng tôi cả ba giả định  trên  đều không phải. Những ai từng biết Nguyễn Huy Tưởng đều rõ một  điều  rằng, ông là người rất coi trọng tư cách nhà văn của mình, một  người như  ông chắc chắn không bao giờ mượn bất cứ danh nghĩa gì, ngoài  văn học,  để khẳng định chân giá trị của mình. Vả lại, ở vào thời điểm  lúc bấy  giờ, danh nghĩa Hội Văn hóa cứu quốc chưa hẳn đã là hay, là  thuyết phục  đối với một bộ phận không nhỏ văn nghệ sĩ có xu hướng chỉ  coi trọng các  sáng tác tự do. Thậm chí “dòng” văn chương của đoàn thể  còn bị coi là  một thứ văn chương mặt trận. Nhật ký của ông có đoạn tự  nói về kịch Bắc  Sơn như sau: “Có tiếng, nhưng có vẻ như là nhờ mặt  trận” (17/7/1946).  Còn đây là lời của nhà báo Phạm Ngọc Khuê mà ông ghi  lại với đầy chua  chát: “Phạm Ngọc Khuê nói một thằng bị giam muốn cho  nó chết chỉ [việc]  cho đọc báo mặt trận” (24/5/1946). 
Vậy thì Nguyễn Huy Tưởng để tên mình đi liền với Hội Văn hóa cứu quốc để làm gì? 
Câu trả lời duy nhất chỉ có thể là: Với Nguyễn Huy Tưởng, Vũ Như Tô và   Văn hóa cứu quốc là một, theo kiểu không có cái này thì cũng không có   cái kia. Hay nói cụ thể hơn, quá trình ông viết Vũ Như Tô cũng chính là   quá trình ông tham gia hoạt động Văn hóa cứu quốc, chịu ảnh hưởng trực   tiếp của cách mạng khi viết đi viết lại tác phẩm này. 
Đây cũng chính là điều chúng tôi muốn được bàn thêm nhằm góp phần lý   giải và cắt nghĩa những thành công mà vở kịch đạt được thông qua cả một   chặng đường trường mà tác giả của nó trải qua khi đến với văn chương và   cách mạng. 
1. Trước Sống mãi với Thủ đô, Vũ Như Tô là tác phẩm dày công nhất của Nguyễn Huy Tưởng 
Cho tới nay, nhiều bài viết về Nguyễn Huy Tưởng nói chung và kịch Vũ Như   Tô nói riêng vẫn ghi niên đại ra đời của tác phẩm này là năm 1941.  Điều  này thực ra đã tồn tại ngay khi tác giả còn sống. Thậm chí trong  danh  mục tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng in kèm trang bìa nhiều cuốn sách  của  ông lúc sinh thời, cũng đã đề như vậy. Nhưng, như nhật ký của ông  cho  thấy, mãi đến tháng 5/1942, Nguyễn Huy Tưởng mới quyết định viết Vũ  Như  Tô, do một lần làm bài thơ về Lê Lợi không thành. Khó có thể  Nguyễn Huy  Tưởng nhớ sai năm viết tác phẩm đầy tâm huyết này của mình.  Theo hình  dung của chúng tôi, có thể nhầm lẫn này bắt nguồn từ một lỗi  in sai ở  một trong những thư mục tác phẩm hoặc niên biểu ban đầu về ông  rồi cứ  thế được “tái bản”, và đến lượt mình Nguyễn Huy Tưởng cũng  không muốn  đính chính lại làm gì, do thói quen không muốn quan trọng  hóa những gì  thuộc về cá nhân mình. Tuy nhiên, ngay cả khi đề đúng năm  1942 thì vấn  đề thời gian ra đời của tác phẩm Vũ Như Tô cũng chưa phải  đã được giải  quyết một cách khoa học và thỏa đáng. 
Lần lại dòng thời gian mà may thay, gần như được xuyên suốt trong nhật   ký Nguyễn Huy Tưởng, chưa đầy hai mươi ngày sau khi ông nói là “nhất   định viết kịch Vũ Như Tô”, vở kịch được hoàn thành. Ngày 8/6/1942, ông   ghi trong nhật ký: “Chép xong Vũ Như Tô. Có một cái buồn thấm thía. Sao   ta lại đặt chuyện này?...” Cũng ngày hôm đó, ông viết lời đề tựa nổi   tiếng với câu hỏi được trở đi trở lại: “Vũ Như Tô phải hay những kẻ giết   Như Tô phải?” 
Hai câu hỏi - một ở nhật ký và một ở lời đề tựa - tuy có khác nhau về   lời lẽ nhưng đều thể hiện sự băn khoăn của Nguyễn Huy Tưởng về tác phẩm   của mình. Đây là một sự băn khoăn rất đáng quý vì nó sẽ khiến tác giả   tiếp tục nghiền ngẫm về vở kịch. 
Chép lại xong tập bản thảo, ông đưa cho một số bạn đọc góp ý kiến. Lê   Vĩnh Tuy, một người hoạt động xuất bản ở Hải Phòng (sau này là Phó giám   đốc Nhà xuất bản Kim Đồng) đã cho ông những nhận xét đầu tiên: “Cuốn Vũ   Như Tô, tôi có cảm tưởng như nó khá thì phải” (nhật ký ngày  12/6/1942).  Việc công bố xem ra cũng khá thuận lợi. Tháng 4/1943,  Nguyễn Huy Tưởng  giới thiệu vở kịch với tạp chí Tri Tân, thì chỉ nửa  năm sau, Vũ Như Tô  của ông bắt đầu được đăng tải. Ngay khi vở kịch còn  chưa đi đến kỳ báo  cuối cùng thì đầu năm 1944, Nhà xuất bản Anh Hoa của  Thái Bá Cơ đề nghị  ông cho in sách, và như nhật ký của ông cho thấy,  vở kịch đã được cấp  phép của kiểm duyệt. Nhưng chính lúc này, sự nghiền  ngẫm của ông về vở  kịch cũng chín muồi và trở thành một thôi thúc ám  ảnh: hoàn thiện tác  phẩm. Nguyễn Huy Tưởng được đặt trước hai lựa chọn:  tận dụng thời cơ cho  in ngay để tác phẩm của mình sớm ra đời, hay sửa  lại đã và như thế có  thể ông sẽ bị mất đi cơ hội hiếm có. Nguyễn Huy  Tưởng đã chọn cái thứ  hai - vì nghệ thuật. Đây cũng là lúc Nguyễn Huy  Tưởng tìm đến với cách  mạng và trực tiếp tham gia các hoạt động trong  nhóm Văn hóa cứu quốc bí  mật. Những nhận thức mới về cách mạng và dân  tộc, sứ mạng và trách nhiệm  của nhà văn đối với nền văn hóa nước nhà mà  ông tiếp thu được của đoàn  thể, càng thôi thúc ông sửa chữa tác phẩm.  Những băn khoăn về vở kịch  lúc này được đem ra trao đổi với nhiều bạn  bè, đồng nghiệp mà nhiều  người đồng thời cũng là đồng chí của ông. Có  thể nhắc đến ở đây những  người đã góp ý cho vở kịch, được Nguyễn Huy  Tưởng ghi lại trong nhật ký:  “Đặng Văn Phan nói nếu sửa chữa vài chỗ  thì vở kịch có thể rất “vĩ đại”  (nhật ký ngày 15/3/1944); “Như Phong  khen Vũ Như Tô, nhưng bảo nên cho  Vũ ít envolée nữa” (ý nói cho nhân  vật Vũ Như Tô bay bổng hơn nữa; nhật  ký ngày 24/4/1944). Đặc biệt một  người bạn là Nguyễn Trọng Hoàn đã cho  ông những ý kiến rất quan trọng:  “Phải thêm các nhân vật vào cho linh  động: có xô xát, có chiến đấu.  Phải tả rõ những tư tưởng tuy không rõ  rệt, nhưng đã phôi thai trong óc  quần chúng: vì đã có thợ ở trong trường  hoạt động”... Từ những ý kiến  khen chê đó, đặc biệt là gợi ý đầy “tính  Đảng” của Nguyễn Trọng Hoàn,  Nguyễn Huy Tưởng đã tiếp thu, sàng lọc và  dành toàn bộ hai tháng cuối  năm 1944 cho việc trước thuật. Vở kịch được  phát triển lớn dần, hay  mượn lời một nhân vật của chính vở kịch, “công  việc thì cứ nở ra”. Nếu  như ban đầu, tác giả đặt mục tiêu là sửa lại,  thì sau đó, ông quyết  định: “Làm lại. Hiện đã thấy vở kịch, tuy chưa  thành hình, nhưng đã  nhung nhúc những nhân vật và rắc rối” (nhật ký ngày  23/11/1944). Chính  trong lúc lao tâm khổ tứ với tác phẩm này, ông đã  gặp phải nhiều mối  lo. Đầu tiên là việc mật thám bắt mấy đồng chí trong  nhóm Văn hóa cứu  quốc: Nguyễn Hữu Đang, Như Phong, Nguyễn Đình Thi, Tô  Hoài. Tiếp đến,  như ông ghi lại trong nhật ký ngày 14/12/1944: “Mật thám  đến hỏi mình  về thẻ gia đình. Lo nghĩ. Mà mình đang viết lại Cửu trùng  đài”... Nhưng  rồi, vở kịch cũng đã xong. Ngày 20/12/1944, Nguyễn Huy  Tưởng rốt cục  đã có thể thở phào nhẹ nhõm: “Sửa xong Cửu trùng đài...  một công đẽo  gọt”. 
Vậy phải chăng cuộc hành trình của ông với Vũ Như Tô đến đây kết thúc?   Có lẽ cho đến lúc này, ngay bản thân Nguyễn Huy Tưởng cũng không nghi   ngờ điều đó. Chép lại xong bản thảo, ông giao cho nhà Anh Hoa và được   hẹn đến tháng sáu năm sau (1945) sẽ in. Nhưng rồi Nhật đảo chính Pháp và   tiếp đến là những ngày tiền khởi nghĩa... Đủ những rối ren khiến cho  vở  kịch của ông không thể được in. May thay, cái giá phải trả cho sự  lựa  chọn “vì nghệ thuật” chỉ là nhất thời. Cách mạng tháng Tám thành  công đã  mở ra triển vọng mới cho những tác phẩm tiến bộ, trong đó có Vũ  Như Tô.  Ngày 18/6/1946, vở kịch được cấp giấy phép kiểm duyệt (hồi mới  giành  được chính quyền vẫn duy trì chế độ kiểm duyệt). Nhưng trước khi  đưa in,  ông còn sửa lại một lần nữa, tuy vẫn chưa thực sự hài lòng:  “Sửa xong  Vũ Như Tô. Cốt hay mà sửa vội vàng” (nhật ký ngày  31/5/1946)(1). Và kết  quả là hơn ba tháng sau, vở kịch được in ra, có  dạng như hiện nay.(2) 
Như vậy, tính từ khi được khởi bút cho đến khi định hình, kịch bản Vũ   Như Tô đã làm một cuộc hành trình kéo dài hơn bốn năm, với ba lần được   viết đi viết lại. Nếu tính cả thời gian thai nghén đề tài và quá trình   tác giả tiếp tục nghiền ngẫm không nguôi sau khi sách đã được in ra thì   khó có thể nói ông đã dành thời gian và tâm huyết đến thế nào cho vở   kịch. Về phương diện này, hoàn toàn có thể sánh Vũ Như Tô với Sống mãi   với Thủ đô, tác phẩm được coi là dụng công nhất của Nguyễn Huy Tưởng.   Nhà văn Tô Hoài đã dùng hình tượng rất hay khi ví Sống mãi với Thủ đô   như là một Cửu trùng đài mà Nguyễn Huy Tưởng quyết dựng nên cho mình.   Nhưng, như trên đã trình bày, bản thân Vũ Như Tô cũng khác nào một tượng   đài như thế đối với Nguyễn Huy Tưởng. Có thể chỉ là ngẫu nhiên, nhưng   đây quả là một sự trùng hợp thú vị: hai tác phẩm ở hai đầu mút của sự   sáng tạo, được coi là hai đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của ông,   đồng thời cũng là hai tác phẩm dụng công nhất, được huy động tới mức cao   nhất tài năng và tâm huyết của tác giả. Điều này lại một lần nữa minh   chứng cho một chân lý, có thể không phải là mới mẻ nhưng chắc chắn  không  bao giờ mất đi ý nghĩa, đó là: ngay cả trong lĩnh vực sáng tạo  nghệ  thuật, thành công trước hết là nhờ ở sự khổ công lao động! 
*** 
Nguồn: Tạp chí Văn học số 3 
Chú thích: 
(1) Có lẽ nên hiểu chữ “vội vàng” này của tác giả bằng chữ “gấp gáp” thì   sẽ khách quan hơn. Chúng ta biết rằng vào lúc ấy, Nguyễn Huy Tưởng và   các đồng chí của ông đang bận trăm công nghìn việc. Nào việc Hội Văn  hóa  cứu quốc, nào việc báo Tiên phong. Riêng Nguyễn Huy Tưởng còn giữ  trọng  trách Tổng thư ký ủy ban trung ương vận động Đời sống mới. Ông  cũng lại  vừa trúng cử Đại biểu Quốc hội khóa I tỉnh Bắc Ninh, một trách  nhiệm to  lớn mà ông phải lo gánh vác trước nhân dân tỉnh nhà. Về mặt  sáng tác là  điều quan thiết với ông hơn cả, vở kịch Bắc Sơn vừa được  công diễn cũng  đang đòi hỏi tác giả gia công thêm trước khi in thành  sách... Tóm lại  thời gian ông dành cho việc sửa Vũ Như Tô có thể là tối  thiểu so với  mong muốn của ông, nhưng đã là tối đa so với quỹ thời  gian mà ông có  được. 
(2) Thực ra, ngay cả ở lần in này, vở kịch vẫn chưa có một thành phần   rất quan trọng là lời Đề tựa ông viết từ năm 1942. Ông chỉ có thể dán   lời Đề tựa đã được đánh máy cẩn thận vào một bản in đẹp mà ông cho đóng   bìa cứng và sửa chữa thêm đôi chỗ để lưu lại. Sau này, khi làm tuyển  tập  kịch của ông vào năm 1963, bà quả phụ Nguyễn Huy Tưởng đưa cuốn  sách đó  cho nhà xuất bản để dùng làm văn bản chính thức. 
 
 
‘Vũ Như Tô’ - một chặng đường trường (phần cuối) 
Nguyễn Huy Thắng 
Sẽ thật bổ ích và lý thú khi biết được quá trình sáng tác và sửa chữa   tác phẩm của nhà văn. Gác sang một bên sự tò mò chính đáng của độc giả,   những thông tin đó còn giúp cho việc nghiên cứu tác giả và tác phẩm  thấu  đáo hơn rất nhiều. Điều này lại càng đúng với trường hợp Vũ Như  Tô, một  tác phẩm mà càng với thời gian càng gây được mối quan tâm của  giới  nghiên cứu, phê bình. 
2. Giữa hai Vũ Như Tô là một sự thay đổi về chất 
Sẽ thật bổ ích và lý thú khi biết được quá trình sáng tác và sửa chữa   tác phẩm của nhà văn. Gác sang một bên sự tò mò chính đáng của độc giả,   những thông tin đó còn giúp cho việc nghiên cứu tác giả và tác phẩm  thấu  đáo hơn rất nhiều. Điều này lại càng đúng với trường hợp Vũ Như  Tô, một  tác phẩm mà càng với thời gian càng gây được mối quan tâm của  giới  nghiên cứu, phê bình. Giờ ta hãy thử xem sự lao tâm khổ tứ của tác  giả  đã giúp cho tác phẩm của ông vươn tới những gì. 
Chúng ta đều biết Vũ Như Tô là câu chuyện về việc xây dựng Cửu trùng   đài. Thoạt đầu, nhà kiến trúc tài ba quyết không chịu đem tài năng phục   vụ cho hôn quân bạo chúa. Nhưng rồi nghe theo cung nữ Đan Thiềm, ông đã   chấp thuận mượn tay vua Lê Tương Dực để thực hiện hoài bão sáng tạo  của  mình. Công việc thổ mộc vĩ đại chưa từng có khiến cho ngân khố hao  hụt,  dân chúng lầm than. Kết cục, chính những người thợ xây dựng Cửu  trùng  đài đã nổi dậy giết Vũ Như Tô, thiêu hủy tòa lâu đài mới xây được  non  nửa. 
Vũ Như Tô ngay ở lần in đầu tiên trên Tri Tân(3), tuy chỉ gói gọn trong   ba hồi kịch nhưng đã có được trọn vẹn hình hài này. Vở kịch cũng đã đưa   ra được một chân dung với những kích cỡ quá khổ của nhân vật Vũ Như  Tô:  một bậc kiến trúc sư có “tài trời”, người mang một ước nguyện lớn  lao:  “xây một lâu đài nguy nga tráng lệ, cùng với vũ trụ trường tồn”,  một vị  chỉ huy xây dựng quyết đoán như ông tướng cầm quân: “”kẻ nào  trái lệnh  chém bêu đầu”, và “quyết đánh tan hết những kẻ thoái chí”,  một tổng công  trình sư sống chết với công trình của mình: khi quân khởi  loạn nổi lên  tìm bắt chàng, Vũ Như Tô khảng khái nói: “Tôi sống với  Cửu trùng đài, và  chết cũng với Cửu trùng đài. Tôi không thể xa Cửu  trùng đài một bước.  Hồn tôi để cả đây, thì tôi chạy đi đâu?”... 
Về nhân cách, Vũ Như Tô được khắc họa như một nghệ sĩ đích thực, trước   sau nhất quán với chính mình: “Biết đa mang là khổ nhục nhưng không sao   bỏ được. Như bóng theo hình”; là một người thợ “có hoa tay tuyệt thế”   nhưng chàng luôn tâm niệm “phần hồn mới là phần chính”; là một kẻ sĩ   “không thể đem tài ra làm một việc ô uế, muôn năm làm bia miệng cho   người đời”, chàng chịu mượn tay vua Hồng Thuận xây dựng Cửu trùng đài   cũng chỉ cốt “dựng một kỳ công muôn thuở”, và chính vì thế mà chàng luôn   ý thức rằng mình vô tội: “Ta có tội gì? Không ta chỉ có một hoài bão  là  tô điểm đất nước, đem hết tài chí ra xây cho nòi giống một tòa đài  hoa  lệ”(4)... 
Về mặt kịch tính, bản Tri Tân cũng đã có được các cao trào, hay nói như   giáo sư Đỗ Đức Hiểu trong bài Bi kịch Vũ Như Tô(5), “những cảnh lớn”  của  kịch bản. Đó là ba lần cặp tài tử giai nhân Vũ Như Tô - Đan Thiềm  xuất  hiện trên sân khấu ở đầu Hồi thứ nhất, cuối Hồi thứ hai và xuyên  suốt  Hồi thứ ba (ở bản Hoa Lư, lần lượt là các hồi thứ nhất, thứ ba và  thứ  năm): “Mỗi lần Đan Thiềm cùng Vũ Như Tô xuất hiện trên sân khấu,  đánh  dấu một biến động lớn của hành động kịch. Có thể gọi những cảnh ấy  là  Những Cảnh Lớn của kịch bản”. Tương ứng với những cảnh lớn ấy là  “Cửu  trùng đài sắp mọc lên, Cửu trùng đài đang vươn lên trời cao và Cửu  trùng  đài sụp đổ, và cũng có nghĩa mối tình tri kỷ nảy sinh, gắn bó  thiết tha  và chìm vào cõi chết.” (6) 
Về cái gọi là “bệnh Đan Thiềm”, một định danh giờ đây thường được các   nhà nghiên cứu nói đến nhiều nhất khi tiếp cận vở kịch, thì với ba hồi   của bản Tri Tân cũng đã được phát lộ khá rõ. Bệnh Đan Thiềm, như nhà phê   bình văn học Phạm Vĩnh Cư đã chỉ ra trong bài Bàn thêm về bi kịch Vũ   Như Tô(7), là “bệnh khát khao và quý giá chỉ một cái đẹp siêu đẳng”(8).   Mang căn bệnh này là hai kẻ đồng bệnh Vũ Như Tô - Đan Thiềm (dẫu rằng   vinh dự mang tên chỉ thuộc riêng nàng cung nữ). Chúng ta hãy cùng nghe   những lời có cánh của họ: “Ông có tài, tài ấy phải đem cống hiến cho non   sông, không nên để mục nát với cỏ cây... Ông cứ xây lấy một tòa đài  cao  cả. Vua Hồng Thuận và lũ cung nữ kia rồi mất đi nhưng sự nghiệp của  ông  còn lại về muôn đời” (lời Đan Thiềm khuyên Vũ Như Tô, Hồi thứ  nhất,  Cảnh VII); “đài phải xây theo đúng kiểu bản đồ này, không thay  đổi một  ly nào... Huống chi xây Cửu trùng đài, vì Hoàng thượng thì ít,  mà vì  tiện nhân thì nhiều” (lời Vũ Như Tô nói với Lê Tương Dực, Hồi thứ  nhất,  Cảnh IX); “Đối với Đan Thiềm, ta chỉ có tình tri kỷ... Vì có bà  mà đường  kiến trúc của ta nẩy ra những ngón dị kỳ” (độc thoại của Vũ  Như Tô, Hồi  thứ hai, cảnh VIII); “Sự nghiệp thì mênh mang, sức người có  hạn... Tiên  sinh nên thận trọng, kẻo có mệnh hệ nào thì lấy ai xây  tiếp Cửu trùng  đài?” (Đan Thiềm, với Vũ Như Tô, Hồi thứ hai, Cảnh  VIII)... Thế rồi, khi  dân chúng nổi lên đốt phá Cửu trùng đài, thì đó  cũng đồng thời là kết  cục của hai tâm hồn cao cả chỉ biết có cái đẹp:  “Đài lớn tan tành! xin  cùng tiên sinh vĩnh biệt” (lời Đan Thiềm trối  lại cùng Vũ Như Tô lúc  nàng bị đem đi hành quyết, Hồi thứ ba, Cảnh  VII); “Đời ta không quý bằng  Cửu trùng đài” và “Thôi thế là hết. Dẫn ta  mau đến pháp trường” (những  lời cuối cùng của Vũ Như Tô trước khi “Màn  hạ nhanh” khép lại vở  kịch)... 
Những đoạn trên đều được trích dẫn từ bản Tri Tân, và, không nghi ngờ gì   nữa, tình yêu nghệ thuật thuần khiết của hai tâm hồn cao đẹp đó chính   là lý do khiến tác giả hạ bút viết trong lời Đề tựa, được soạn ngay sau   khi chép xong bản thảo: “Cầm bút chẳng qua cùng một bệnh với Đan  Thiềm”.  Lời tâm sự đó dễ làm người đọc tưởng như Nguyễn Huy Tưởng đã  yên bề với  tác phẩm của mình? Thế nhưng, cùng ngày hôm đó ông ghi trong  nhật ký  một nhận xét không thể xem nhẹ về vở kịch: “Hoàn toàn bịa đặt,  nhưng một  biểu hiện rất hay” (nhật ký ngày 8/6/1942). Ở đây xin đặc  biệt lưu ý về  chữ dùng này của Nguyễn Huy Tưởng. Ông viết “bịa đặt”,  chứ không phải  là “hư cấu” hay “tưởng tượng”. Chúng ta biết rằng, trong  văn học nhà văn  có quyền hư cấu, tưởng tượng - thậm chí điều này còn  là cần thiết nữa -  để cho tác phẩm của mình thêm bay bổng, miễn sao sự  việc diễn ra như  thật và nhân vật như bằng xương bằng thịt. Nhưng bịa  đặt thì lại là  chuyện khác mất rồi. Bịa đặt là một cái gì đó thuộc về ý  chí chủ quan  của tác giả, nhằm thuyết phục độc giả tin vào cái mà tác  giả muốn người  ta tin theo. Hẳn Nguyễn Huy Tưởng không bao giờ muốn tác  phẩm của mình  chỉ là một thứ thuyết giáo đại loại! 
Như một người cha không thôi đau đáu về đứa con tinh thần của mình,   Nguyễn Huy Tưởng nhận ra rằng, tác phẩm của ông còn chưa đủ thấu đáo,   rằng, khi chỉ ra căn bệnh Đan Thiềm, đấy là ông mới để cho cặp nhân vật   của ông nói thay những tư tưởng của mình. Vở kịch của ông còn chưa có   được sự phát triển tự thân, nội tại, nói cách khác, còn chưa đủ chất   liệu nghệ thuật để chứa tải những tư tưởng đó. Thế rồi, như ở trên đã có   nói, Nguyễn Huy Tưởng đến với cách mạng. Cùng với những nhận thức ngày   một chín muồi về văn chương nghệ thuật, ông cũng có dịp trao đổi với  bạn  bè, đồng chí về vở kịch, và nhận được nhiều ý kiến đóng góp quý  báu.  Hội tụ tất cả những yếu tố ấy, người nghệ sĩ mẫn cảm, nhà văn cần  mẫn  Nguyễn Huy Tưởng đã quyết định viết lại hoàn toàn vở kịch. 
Nhật ký ngày 5/2/1933, của ông - khi ấy Nguyễn Huy Tưởng mới 21 tuổi đầu   - có câu: “Khi người ta biết chữa văn của mình bấy giờ người ta mới  dám  chắc ở cái tài của mình”. Câu nói ấy, giờ đây, phải chăng đã có thể   diễn đạt khác đi như thế này: “Khi người ta đã chắc ở cái tài của  mình,  người ta mới có thể chữa văn của mình”. Cẩn trọng mà say sưa, tự  tin và  cầu thị, nhiệt thành nhưng tỉnh táo, đó là điều ta có thể hình  dung về  Nguyễn Huy Tưởng những ngày viết lại tác phẩm này, khi ông đã ở  vào tuổi  “tam thập nhi lập”, để tạo nên một Vũ Như Tô thay đổi về  chất. Trước  hết về quy mô, bản Hoa Lư là một vở kịch năm hồi bề thế so  với bản Tri  Tân chỉ có ba hồi với khoảng phân nửa số trang. Thứ hai là  về nhân vật,  nếu như bản Tri Tân chỉ có hai nhân vật thợ có tên (Phạm  Ất và Nguyễn  Ba) thì bản Hoa Lư có đến năm nhân vật (Hai Quát và bốn  ông “phó”); nếu  như bản Tri Tân có nhân vật Hoàng hậu (mà ở bản Hoa Lư  được bỏ đi), thì  đến lượt mình, bản Hoa Lư có thêm các nhân vật quan  Đông các đại học sĩ  Nguyễn Vũ, Thái tử Chiêm Thành và Thị Nhiên, vợ Vũ  Như Tô. 
Chỉ với hai sự so sánh kể trên đã phần nào thấy được sự khác biệt về căn   bản giữa hai văn bản Vũ Như Tô. Nhưng với một tác phẩm văn học, không   phải quy mô hay dung lượng mà trữ lượng tư tưởng và nghệ thuật mới là   cái đáng kể. Với một vở kịch thì những yếu tố này phải làm sao được thể   hiện qua những lớp lang của vở, với những cao trào và khoảng lặng, với   những nhân vật thay đổi vào ra, nói năng, hành động... trên sân khấu.  Có  thể hình dung mà không sợ sai rằng, khi nhìn lại kịch bản của mình,   Nguyễn Huy Tưởng đã nhận thấy ba hồi kịch diễn ra có phần nóng vội, gấp   gáp, giống như ba đợt sóng liên tiếp mà ở đỉnh sóng luôn luôn là cặp  tài  tử giai nhân Vũ Như Tô - Đan Thiềm. Riêng từng đợt sóng ấy có thể  là  hùng, là đẹp đấy, nhưng khi lắp vào với nhau thì rõ ràng là đơn điệu  và  chưa thể hợp thành một chỉnh thể hài hòa. Thế là, giữa các hồi thứ  nhất  và thứ hai, thứ hai và thứ ba ông thêm vào hai hồi nữa mang số  chẵn, có  âm hưởng dân dã hơn với tuyến nhân vật nhộn nhạo hơn. Vở kịch  giờ đây  được kết cấu như một tác phẩm giao hưởng cổ điển, gồm các  chương nhanh  chậm đan xen, hòa quyện, với nhiều hợp âm thú vị gây mỹ  cảm.(9) 
Bên cạnh chức năng thẩm mỹ, hai hồi kịch mới này còn cho phép tác giả có   thêm “đất” để đưa vào hàng loạt nhân vật với các tầm mức quan trọng   khác nhau, đặc biệt trong đó phải kể đến nhân vật Thái tử Chiêm Thành và   Thị Nhiên, phải, nhân vật Thị Nhiên vợ Vũ Như Tô mà theo Phạm Vĩnh Cư,   chỉ riêng cái tên không thôi đã là một sáng tạo đáng phục của Nguyễn  Huy  Tưởng. Nếu như ở các hồi lẻ I, III, V, nổi lên những hợp âm thống   thiết, như tung như hứng của cặp bè đôi Vũ Như Tô - Đan Thiềm, thì ở các   hồi chẵn II, IV này, những âm điệu “đồng sàng dị mộng” không mấy ăn   nhập của cặp vợ chồng Vũ Như Tô - Thị Nhiên đem đến cho vở kịch một sự   đối âm trong thế cân bằng uyển chuyển(10). Trong đó, màn đối thoại của   cặp vợ chồng này ở Hồi thứ tư, khi Vũ Như Tô say sưa nói về công trình   của mình mà không để ý gì đến những lời ca thán của vợ chàng về nỗi khổ   của dân chúng do phải phục dịch Cửu trùng đài, còn được Phạm Vĩnh Cư  coi  là một trong những màn hay nhất của vở kịch. 
Cũng vẫn nhân vật Thị Nhiên, cùng với nhân vật Thái tử Chiêm thành đã   đem đến cho vở kịch một phẩm chất mà tác phẩm văn học lớn nào cũng có   tham vọng đạt tới. Đó là tính đa nghĩa, đa chiều. Nếu như trước đây,   người ta thường chỉ tìm thấy ở Vũ Như Tô những vấn đề “dễ thấy” như mối   quan hệ giữa nghệ sĩ với cường quyền, nghệ sĩ với nhân dân, thì bước  vào  thời kỳ đổi mới, nhà phê bình văn học Văn Tâm trong một bài viết có  cái  tiêu đề khá lạ lẫm, Vũ Như Tô trong cuộc đời bát nháo(11), đã phát  hiện  ra một vấn đề lớn khác mà vở kịch đặt ra, đó là mối quan hệ giữa  quyền  lợi dân tộc và quyền lợi nhân dân. Theo Văn Tâm, dân tộc và nhân  dân là  hai khái niệm không hoàn toàn đồng nhất, mà ở một trường hợp cụ  thể như  vụ việc xây dựng Cửu trùng đài, tuy là chuyện có thật trong  lịch sử  nhưng khi được tái hiện thông qua hư cấu hóa trong vở kịch của  Nguyễn  Huy Tưởng, thì quyền lợi dân tộc và quyền lợi nhân dân thực sự  đã không  đồng hành, thậm chí còn là ngược chiều. Nhân vật Thị Nhiên,  người chỉ  cần “quạt thóc, băm bèo, cũng đủ hú hí mẹ con”(12) vô hình  chung đã mang  tính biểu tượng cho thực thể nhân dân, trong thế đối  kháng với thực thể  đối sánh với nó là nhà cầm quyền, được biểu hiện bởi  vua Lê Tương Dực,  kẻ hễ cứ mở miệng ra là đòi chém giết. Cung nữ Đan  Thiềm, người luôn  khát khao “dân ta nghìn thu được hãnh diện”, chính là  biểu tượng cho  thực thể dân tộc trong thế đối kháng với thực thể đối  sánh là dân tộc  khác mà Thái tử Chiêm Thành là biểu tượng; nhân vật  này, như trong vở  kịch đã chỉ ra, vừa là nạn nhân - bị Lê Tương Dực bắt  làm con tin, vừa  là mối hiểm họa cho nước Đại Việt khi tìm cách tiếp  tay cho vua Lê xây  Cửu trùng đài, khiến cho dân cùng nước kiệt. 
Mặt khác, khi thêm vào các nhân vật nói trên, hình tượng Đan Thiềm không   những không bị nhạt đi, mà căn bệnh của nàng càng trở nên phức tạp,  “có  vấn đề” hơn. Trên kia chúng tôi đã trích dẫn một định nghĩa của  Phạm  Vĩnh Cư về căn bệnh Đan Thiềm: đó là “bệnh khát khao và quý giá  chỉ một  cái đẹp siêu đẳng”. Thực ra đó là chúng tôi mới trích dẫn có  nửa vế.  Trong bài viết thấu đáo của mình, sau lời định nghĩa nói trên,  nhà  nghiên cứu còn đặc biệt lưu ý: “Cái đó (bệnh khát khao và quý giá  chỉ  một cái đẹp siêu đẳng) có thể châm chước cho nàng, nhưng nếu họ Vũ  chỉ  say đắm Đan Thiềm và quên hẳn Thị Nhiên, thiên tài của chàng sẽ cạn   kiệt.”(13) 
Tất nhiên, nếu xét thêm về mặt sân khấu học, còn có thể bàn thêm về   nhiều điều khác nữa như hành động kịch, đất diễn của nhân vật... mà hai   hồi bổ sung này đã đem lại cho vở kịch. Ít nhất thì chúng cũng giúp cho   cả hai nhân vật chính Vũ Như Tô và Đan Thiềm có thêm đất diễn trong  thế  tương quan chặt chẽ với các nhân vật được mở rộng ngoài phạm vi  cung  đình. Tuy nhiên, đây lại thuộc về một lĩnh vực khác mà chúng tôi  xin  phép không bàn tới ở đây. 
 
3. Dấu ấn của hai lần sửa chữa trước và sau Cách mạng 
Sẽ là thú vị nếu biết Nguyễn Huy Tưởng đã đạt được những gì qua mỗi lần   sửa chữa tác phẩm (xin được nhắc lại, lần thứ nhất là vào cuối năm  1944,  lần thứ hai là giữa năm 1946). Đây quả là điều rất khó vì bản  thảo của  cả hai lần sửa chữa đó đã không còn. Tuy nhiên, dựa vào nhật  ký và bản  thân tác phẩm của ông, chúng ta có thể hình dung được phần  nào. 
Khỏi cần phải nói, những thay đổi cơ bản nhất đã được thực hiện ngay   trong lần sửa thứ nhất. Nhật ký của ông còn ghi lại: “Thảo xong plan (đề   cương) Cửu trùng đài.” 10/12/1944); “Bắt đầu viết lại Cửu trùng đài.   Hồi thứ hai (thêm). Văn chạy, hai hôm viết được 12 trang.” 11/12/1944);   “Sửa xong Cửu trùng đài. Dài lắm... Nhưng không đến nỗi chết như vở cũ.   Linh động hơn nhiều, và có lý hơn nhiều.” 20/12/1944)... Nghĩa là, về   quy mô cũng như về kịch tính, vở kịch đã được thay đổi về chất. Còn về   nhân vật? Xin lại được dẫn ra đoạn nhật ký của Nguyễn Huy Tưởng mà  chúng  tôi đã có nêu ở phần đầu: “Hoàn đã cho ý kiến về việc viết lại Vũ  Như  Tô. Phải thêm các nhân vật vào cho linh động: có xô xát, có chiến  đấu.  Phải tả rõ những tư tưởng tuy không rõ rệt, nhưng đã phôi thai  trong óc  quần chúng: vì đã có thợ ở trong trường hoạt động. Cái vô ý  thức cần  phải tả cho thực khéo, đừng cho họ nói những lý thuyết của  mình.”  21/11/1944). 
Rất tiếc là đến nay chúng tôi vẫn chưa xác định được người bạn (hay   người đồng chí) này của Nguyễn Huy Tưởng là ai, ngoài việc ông là một   “người có chí khí”, “gầy, và cao, nhưng rắn rỏi”, tên đầy đủ là Nguyễn   Trọng Hoàn. Nhưng rõ ràng, đây là người đã chia sẻ với Nguyễn Huy Tưởng   những ý tưởng hết sức quan trọng về việc sửa lại Vũ Như Tô, đặc biệt là   về phương diện các nhân vật thợ và thế giới quan của nhà văn đối với  họ.  Thực tế là sau đó, tác giả đã đưa vào vở kịch của mình năm nhân vật  thợ  mới: Hai Quát, Phó Bảo, Phó Cõi, Phó Toét, Phó Độ. Năm người lúc  đầu  cùng hăm hở giúp Vũ Như Tô xây đài, nhưng khi công việc gặp khó  khăn  (phải nói là khó khăn ghê gớm), động chạm thiết thân đến mỗi  người, thì  giữa họ đã xảy ra xung đột gay gắt: Hai Quát, Phó Bảo chống  lại việc  tiếp tục xây đài, trong khi Phó Cõi, Phó Độ vẫn còn nặng lòng  với Vũ Như  Tô (đặc biệt là Phó Cõi, một người thợ không bao giờ “nhị  tâm”), còn  lại Phó Toét vô thưởng vô phạt. “Tương quan lực lượng” không  hẳn là “năm  mươi năm mươi” những thế cũng là khá cân bằng. Có thể,  trong mong muốn  của tác giả, với tất cả thiện cảm (và cả kỳ vọng nữa)  của ông đối với  giới thợ thuyền, Nguyễn Huy Tưởng vẫn đặt niềm tin vào  sự tỉnh táo của  họ, sự ứng xử thỏa đáng của họ đối với Cửu trùng đài,  công trình mà  không chỉ Vũ Như Tô mà bản thân tác giả cũng thiết tha  đến thế! Nhưng  khi sự biến xảy ra, tiếc thay, “thợ xây Cửu trùng đài  quá nửa theo về  quân phản nghịch”, và những người hôm trước còn chung  tay xây dựng, thì  nay chính những bàn tay ấy đã thiêu Cửu trùng đài ra  tro. Phải chăng đây  là một thực tế như lịch sử đã diễn ra, phải chăng  đây là do sự phát  triển nội tại của tác phẩm mà tác giả dù có muốn cũng  không làm khác  được, hay đây chính là cái gọi là “tính dự báo của nhà  văn” - tác giả đã  tiên liệu và cảnh báo trước chúng ta nhiều thập kỷ về  mối nguy cơ của  việc ứng xử tùy tiện đối với văn hóa, do những bức xúc  nhất thời của một  số đông “nông nổi”!... 
Với các hồi kịch được thêm vào, với những nhân vật được bổ sung, với   những ý tưởng được triển khai vừa nhất quán vừa đa nghĩa đa chiều như   trên chúng tôi đã cố gắng phân tích, vở kịch lúc này hẳn là đã định hình   về cơ bản. Như trong nhật ký của tác giả cho biết, ít ngày sau đó ông   giao bản thảo cho nhà Anh Hoa với tâm trạng khá là háo hức. Lần sửa  tiếp  theo trước khi đưa Hoa Lư in có lẽ là không nhiều, vì vở kịch đã  có cơ  sở là “cốt hay” rồi, vấn đề chỉ còn là sửa về văn phong, câu chữ.  Nhưng,  như người ta vẫn nói, “văn học là nghệ thuật của ngôn từ”. Sự  trau  chuốt ở lần sửa thứ hai này chắc chắn đã có phần đóng góp không  nhỏ, đặc  biệt là trong việc nâng cao chất lượng văn học của vở kịch để  Vũ Như Tô  xứng đáng là một kiệt tác của Nguyễn Huy Tưởng... 
Theo hồi ức của nhiều bạn bè, đồng nghiệp với Nguyễn Huy Tưởng cũng như   theo các ghi chép cá nhân của ông, tác giả Vũ Như Tô sau này còn muốn   sửa lại nữa tác phẩm của mình. Không biết ông định sửa ra sao và kết quả   của việc sửa chữa đó, nếu có, sẽ như thế nào. Bệnh ác đã cướp ông đi   giữa lúc nhà văn còn đang ôm ấp nhiều dự đồ văn nghệ, trong đó có việc   sửa chữa Vũ Như Tô. Dẫu sao thì vở kịch của ông cũng đã mặc nhiên tồn   tại như-thế-ấy trong tâm trí của nhiều thế hệ bạn đọc sáu thập kỷ qua.   Âu đây cũng là số phận lịch sử của tác phẩm. Có thể đã có lúc Nguyễn Huy   Tưởng nghĩ rằng nó cổ. Có thể đã có lúc ông còn tự trách cứ mình sửa   tác phẩm vội vàng. Nhưng như một nghịch lý, càng với thời gian, tác phẩm   của ông càng được nhận chân với những vẻ đẹp mới và càng dễ được tiếp   nhận. Có thể lý giải điều này như thế nào đây. Có phải là do gần đây,  do  tác động của phim ảnh, nhất là phim Trung Quốc, độc giả đã quen hơn  với  những từ ngữ kiểu như “bệ hạ” và “hạ thần”, “ái khanh” và “tiện  thiếp”?  Có phải do trình độ bạn đọc nước ta ngày một cao lên? Hay là do  hàng  loạt những bài nghiên cứu gần đây về Vũ Như Tô, trong số đó có  những bài  có thể nói là rất chất lượng, đã góp phần giải mã vở kịch (và  cả khẳng  định nữa), giúp cho sự tiếp thụ của bạn đọc? Theo chúng tôi,  tất cả  những yếu tố đó đều có ở những mức độ trọng yếu khác nhau. Nhưng  trên  hết, thành công của trước tác Nguyễn Huy Tưởng thuộc về chính  những nỗ  lực cá nhân của ông. Nói một cách cụ thể hơn, Vũ Như Tô - đó  là khát  vọng vươn tới những giá trị chân, thiện, mỹ không bao giờ là  cũ, của nhà  văn, nhà cách mạng trẻ tuổi Nguyễn Huy Tưởng. 
Phần 1 
 
*** 
Chú thích: 
(3) Sau đây, để cho bạn đọc tiện theo dõi, văn bản Vũ Như Tô đăng trên   Tri Tân sẽ được gọi là “bản Tri Tân”, còn văn bản do Hoa Lư xuất bản sẽ   được gọi là “bản Hoa Lư”. 
(4) Những trích đoạn trên đây được lấy theo bản Tri Tân, tuy có ít nhiều   khác biệt về câu chữ với bản Hoa Lư, nhưng về đại thể thì là một. 
(5) In trong Đổi mới đọc và bình văn, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 1999. 
(6) Đỗ Đức Hiểu, sđd. 
(7) In trong Sáng tạo và giao lưu, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2004. 
(8) Về “bệnh Đan Thiềm”, bạn đọc có thể tham khảo thêm bài viết cùng tên   của Phạm Xuân Nguyên, in trong Nguyễn Huy Tưởng - một sự nghiệp chưa   kết thúc, Viện Văn học xuất bản, 1992. 
(9) Tất nhiên, khi bổ sung thêm hai hồi mới, tác giả cũng đã có những   điều chỉnh cần thiết cho các hồi kịch ban đầu để tất cả hợp thành một   thể thống nhất, hô ứng lẫn nhau. Tuy nhiên, để việc phân tích được tập   trung, sau đây chúng tôi sẽ chủ yếu nói về hai hồi kịch mới này nhằm nêu   bật những tiến bộ mà vở kịch đạt được sau khi được viết lại. 
(10) Mượn lời của Phạm Vĩnh Cư, sđd. 
(11) In trong Nguyễn Huy Tưởng - một sự nghiệp chưa kết thúc, sđd. 
(12) Những trích dẫn của vở kịch từ nay trở đi đều lấy theo bản Hoa Lư 
 
 |  
  
 
		
		
		
 
  
 | 
 |   
 
    BÁO LỖI BÀI VIẾT
 Hãy gửi cốc trà đá cho TTB tài khoản ngân hàng phía dưới hoặc paypal : 
    paypalme/tuthienbao
 Giúp có kinh phí duy trì Free  
 
 
TÌM BÀI VIẾT KHÁC SEARCH TRÊN THANH TìM KIẾM PHÍA TRÊN WEB 
 
 
		
		
		
			
			
			
			
				 
			
			
			
			
			
			
			
				
			
			
			
		 
	
	 | 
 
 
 
 
	 
	
		
	
	
		
 
  	 	 
 
	
ADS
	
	
 
 
	
	
Miễn trừ trách nhiệm.NẾU CÓ ĐIỀU KIỆN HÃY MUA SÁCH ỦNG HỘ NHÀ XUẤT BẢN 
© Tuthienbao.com- TTB chúng tôi không cung cấp chức năng đăng ký thành viên để viết bài hay bình luận - Nếu có khiếu nại chung tôi sẽ xử lý.Mọi dữ liệu về diễn đàn trên website này đều được chúng tôi và các thành viên tham gia website tổng hợp từ  tất cả các trang website .Do đó, chúng tôi không chịu trách nhiệm về những dữ liệu được chia sẻ tại đây.Truyện Nội Dung được chia sẻ chỉ với mục đích giải trí, phi lợi nhuận. Mọi bản quyền thuộc về tác giả và nhà xuất bản gốc.Nếu có yêu cầu gỡ bỏ, xin liên hệ qua email
  
truyen tranh,
truyen tranh 8,truyen tranh hay,
truyen tranh online,
ebook,ebook ngon tinh,
van hoc lop 5,van hoc lop 6,van hoc lop 7,van hoc lop 8,van hoc lop 9,van hoc lop 10,van hoc lop 11,van hoc lop 12,
 
     | 
  
 
 
Powered by: vBulletin v3.8.2
 Copyright ©2000-2025, Jelsoft Enterprises Ltd.
 
	
	
		
	
	
 
      |