Bài Làm 1
Như chúng ta đều biết, Cao Bá Quát là một trong  những nhân vật độc đáo  trong lịch sử văn học trung đại Việt Nam, một  người xuất thân từ Cửa  Khổng sân Trình, lãnh hội nền giáo dục và tư  tưởng Nho giáo và cũng đã  từng lựa chọn con đường học hành, khoa cử để  ra thực hiện lí tưởng của  mình nhưng đã vượt ra ngoài phạm vi khuôn khổ  tư tưởng Nho giáo (trong  chừng mực nào đó) khi quyết định tham gia cuộc  khởi nghĩa chống lại  triều đình phong kiến nhà Nguyễn. Để giải thích  hiện tượng đó, cần có  cái nhìn đa chiều, lí giải nguyên nhân không chỉ  từ những tác động của  bối cảnh xã hội Việt Nam đương thời, mà còn từ phía những đặc điểm cá  nhân, những động lực, thúc bách và lựa chọn của cá nhân  Cao Bá Quát.  Bài thơ Sa hành đoản ca (được làm khi CBQ vẫn còn trên con  đường khoa  cử, mong có được công danh để ra giúp dân giúp nước, thực  hiện lí  tưởng, hoài bão của mình) thể hiện thái độ của tác giả với xã  hội đương  thời và phần nào hé lộ những nguyên nhân, những động lực thúc  đẩy ông  đến quyết định phản kháng mãnh liệt triều đình phong kiến.
1. Thái độ của Cao Bá Quát đối với công danh và xã hội đương thời.
- Trước hết phải nói, công danh đối với nhà Nho có một ý nghĩa quan   trọng. Nó đã từng là lí tưởng sống, và với nhiều người, nó còn trở thành   ý thức thường trực như một nghĩa vụ, một "món nợ" cần phải trả của kẻ   nam nhi, là yếu tố khẳng định sự hiện tồn của cá nhân trong cuộc đời   ("không công danh thà nát với cỏ cây"). Đó là nói về lí tưởng công danh   với những con người có nhân cách cao khiết, có ước vọng muốn làm nên sự   nghiệp lớn để giúp dân, giúp nước, để lưu danh cùng thiên cổ. Nhưng   trong thời đại mà Cao Bá Quát sống (xã hội phong kiến nhà Nguyễn đầu thế   kỉ XIX), nhiều giềng mối của của xã hội bị lung lay, nhiều kẻ cơ hội   bon chen trên đường công danh chỉ vì mục đích tự lợi thấp hèn. Vả chăng,   con đường khoa cử, kiếm tìm công danh cũng không còn được ý nghĩa tiến   bộ của nó.
- Trong bài thơ Sa hành đoản ca, Cao Bá Quát cũng rất sớm nhận ra được   tình trạng đó và trong lòng người trí thức ấy không khỏi băn khoăn, trăn   trở. Qua hình tượng Bãi cát dài và Người đi trên bãi cát, nhà thơ đã   thể hiện tâm trạng bi phẫn, sự băn khoăn, trăn trở khôn nguôi về con   đường mà mình đang đi.
+ Con đường công danh, đường đời là một con đường đầy gian khó, mờ mịt,   vô định (qua hình ảnh bãi cát dài nối tiếp nhau và nỗi khó khăn của   người đi trên cát)
+ Trên con đường theo đuổi công danh đó, nhà thơ nhận ra có biết bao kẻ   ti tiện chỉ coi công danh là miếng mồi ngon cần giành giật mà quên đi   mục đích, lí tưởng cao đẹp của cuộc sống. Sức cuốn hút của công danh có   thể làm mê muội, tha hóa con người (như quán rượu nơi đầu gió làm bao  kẻ  lữ hành khao khát, mê muội).
+ Nhận thức rõ tình trạng đó, nhà thơ băn khoăn, tự vấn quyết liệt về   con đường đang đi, con đường sẽ đi. Đường bằng (Thản lộ) thì ít, lại mờ   mịt mà Đường ghê sợ (con đường tha hóa, đeo đuổi công danh mà bao kẻ   đang theo đuổi) thì nhiều. Cuộc đấu tranh tư tưởng dữ dội ấy nhiều lúc   tưởng đã bế tắc, không tìm ra lối thoát (cùng đồ). Kết thúc bài thơ là   một câu hỏi tu từ "Anh đứng làm chi trên bãi cát". Nó như một mối băn   khoăn day dứt khôn nguôi đồng thời cũng là lời thúc giục, động viên, lời   tác giả tự khuyến khích mình hãy dũng cảm dứt bỏ, bước ra khỏi "úy lộ"   (con đường ghê sợ) để thực hiện lí tưởng, lẽ sống của mình.
2. Lí giải nguyên nhân CBQ tham gia cuộc nổi dậy chống triều đình phong kiến nhà Nguyễn
Từ toàn bộ bài thơ thấy toát lên hình ảnh một người trí thức tự nhiệm,   trung thực, đầy tinh thần trách nhiệm với đất nước, với cuộc đời mình,   luôn băn khoăn, day dứt về con đường đang đi. Một con người đầy bản   lĩnh, quyết không chịu say, không chịu "học phép ngủ" để cùng say ngủ   với biết bao kẻ dung tục trong đời. Sự băn khoăn trăn trở còn được đẩy   lên mức độ căng thẳng với những lời tự tra vấn quyết liệt về lẽ sống, về   con đường phải đi thể hiện một nhân cách cao cả, không chịu thỏa hiệp   với dục vọng bản thân và với thực trạng xã hội đang tiềm chứa nhiều suy   thoái. 
Và ta thấy, ngay từ rất sớm, trong ông đã tiềm chứa ước muốn đổi thay   thực trạng xã hội, quyết không chấp nhận thực tại. Khi gặp những hoàn   cảnh cụ thể (khi đã chứng kiến hết cảnh thối nát chốn quan trường, thấy   rõ hiện trạng xã hội, lại bị dập vùi không thương tiếc), ước muốn đó sẽ   chuyển thành hành động phản kháng mãnh liệt. Và đó là một phần nguyên   nhân giải thích lí do khiến CBQ đã tham gia cuộc khởi nghĩa chống lại   triều đình phong kiến nhà Nguyễn năm 1854
=============================================
Bài Làm 2
Bài ca ngắn đi trên cát dựng lên hình tượng một con   người đi giữa một bãi cát mênh mông, mỗi bước chân đều bị lún xuống   cát, cho nên hễ tiến lên một bước lại phải lùi lại một bước. Ngay từ   đầu, bài thơ đã sử dụng điệp âm, và điệp âm đặt trong cách ngắt nhịp 2/3   liên tiếp trong hai câu thơ năm chữ đã gợi lên cái cảm giác của bước   chân người đi luôn luôn bị kéo giật lại :
Trường sa / phục trường sa,
Nhất bộ / nhất hồi khước.
(Cát dài / bãi cát dài,
Mỗi bước / lùi một bước)
Con người đi trong trạng thái bất thường như thế tất nhiên là đi  liên  miên suốt đời mà không bao giờ thấy đích. Anh ta không còn chút  ấn tượng  nào về thời gian, về sáng tối. Chỉ có nỗi phiền muộn cứ chất  mãi lên  trái tim anh :
Nhật nhập hành vị dĩ,
Khách tử lệ giao lạc.
(Mặt trời đã lặn đi chưa nghỉ,
Bộ hành nước mắt lã chã rơi).
Bài thơ cho thấy, chỉ mới ở tuổi trong ngoài ba mươi, Cao Bá  Quát đã  cảm nhận được sự bế tắc cùng cực của một loại hình nhà nho  không hợp  khuôn với chế độ hiện hành. Nhà thơ tự đặt ra một lối thoát  là trong  cuộc đi vô tận đó, nếu người ta có thể ngủ đi được theo phép  “thụy du”  của những ông tiên thì may ra mọi nỗi thống khổ mới chấm dứt.  Tiếc thay  phép thụy du đối với những người vốn đã quá tỉnh lại chẳng  có chút gì  hiệu lực. Vì thế, càng đi trong sự tỉnh táo thì mọi nỗi oán  hận trong  lòng người đi chỉ càng thêm chất chồng :
Quân bất học tiên gia mỹ thụy ông,
Đăng sơn thiệp thủy oán hà cùng ?
(Không học được tiên ông phép ngủ,
Trèo non lội suối giận sao nguôi ?)
Và nhà thơ lại thử làm một phép so sánh giữa loại “hành nhân”  đáng gọi  là tỉnh kia với vô số những người ngược xuôi vì danh lợi, thì  hóa ra số  người tỉnh rất ít, còn tất cả bọn họ đều là người say :
Cổ lai danh lợi nhân,
Bôn tẩu lộ đồ trung;
Phong tiền tửu điếm hữu mỹ tửu,
Tỉnh giả thường thiểu, túy giả đồng.
(Xưa nay phường danh lợi,
Bôn tẩu trên đường đời;
Gió thoảng hơi men trong quán rượu,
Say cả hỏi tỉnh được mấy người ?)
Sự đối lập thức / ngủ và tỉnh / say thực ra chỉ là những biện  pháp loại  trừ nhằm giới hạn dần và soi tỏ từng bước đặc trưng loại biệt  của đối  tượng. Và đến đây, cảm hứng về một con người lầm lũi đi không  biết tháng  biết năm, đi mà không bao giờ tới đích, đi nhưng vẫn cứ như  dẫm chân  tại chỗ… ở đầu bài thơ được tiếp thêm bởi cái cảm hứng về sự  cô đơn  tuyệt đối của chính người bộ hành ấy, đã nâng hình tượng trữ  tình của  bài thơ lên mức một ẩn dụ có sức ám ảnh ghê gớm : người hành  nhân ấy vẫn  cứ đang mải miết đi, nhưng nhìn lên phía Bắc thì muôn ngọn  núi lớp lớp  đã sừng sững chắn mất lối; ngoảnh về Nam, núi và sóng hàng  muôn đợt cũng  đã vây phủ lấy mình. Và nhìn khắp bốn phía, thì nào có  còn ai, chỉ còn  độc một mình mình đứng trơ trên bãi cát. Bài thơ mở đầu  bằng một câu vần  bằng và ba câu vần trắc, đều là câu năm chữ, như muốn  ném ra giữa cuộc  đời một nhận xét chua chát về sự cố gắng tìm đường vô  ích. Kế tiếp là  hai cặp câu vần bằng dài - ngắn và hai cặp câu vần  bằng xen trắc, cùng  dài nhưng khác vần, biểu hiện những quặn khúc trong  quá trình cọ xát với  thực tiễn của chủ thể trữ tình / con người lặn  lội tìm đường một cách  hoài công :
Quân bất học tiên gia mỹ thụy ông,
Đăng sơn thiệp thủy oán hà cùng/
Cổ lai danh lợi nhân,
Bôn tẩu lộ đồ trung/
Phong tiền tửu điếm hữu mỹ tửu,
Tỉnh giả thường thiểu túy giả đồng/
Trường sa trường sa nại cừ hà !
Thản lộ mang mang úy lộ đa/
Thế rồi ở phần cuối, bài thơ kết thúc bằng một câu vần bằng và  ba câu  vần trắc bảy chữ, báo hiệu một cái gì đang thắt lại trong tư  tưởng, là  cái tuyên ngôn “cùng đường” của nhà thơ. Phép điệp âm ở đây  lại được sử  dụng tiếp, cài vào nhau, đan chéo nhau, đẩy cảm giác nhức  nhối đến cùng  tột :
Thính ngã nhất xướng “cùng đồ” ca :
Bắc sơn chi Bắc / sơn vạn điệp,
Nam sơn chi Nam / ba vạn cấp;
Quân hồ vi hồ sa thượng lập ?
(Nghe ta ca “cùng đường” một khúc :
Phía Bắc núi Bắc / núi muôn lớp,
Phía Nam núi Nam / sóng muôn đợt;
Sao mình anh trơ trên bãi cát ?)
Hình ảnh kết đọng cao nhất là một con người đã mất hết ý niệm về  thời  gian vì những cuộc đi, lại mất luôn cả ý niệm về phương hướng vì  không  còn có không gian xoay trở. Đấy là con người mất ý thức về lẽ tồn  tại.  Nhưng câu cuối cùng của bài thơ là một câu hỏi, cho nên cần hiểu :  trong  cảnh ngộ tuyệt vọng, con người này vẫn luôn luôn băn khoăn thắc  mắc mà  không giải đáp nổi vì sao và do đâu mình lại tự đánh mất lý do  tồn tại  của mình.