Tìm kiếm chủ đề bài viết ở đây trước khi hỏi TTB -Tìm bằng tiếng việt có dấu càng chính xác-Ví Dụ:Đánh vào Hwang mi ri để tìm truyện tác giả này
 
Hãy ủng hộ mua bất kỳ sản phẩm trên shopee.vn truy cập Vào Đây tìm sản phẩm rồi mua, mỗi lượt mua đều giúp duy trì website hoạt động miễn phí
KHÔNG XEM ĐƯỢC ẢNH TRUY CẬP ĐỔI DNS CLICK VÀO ĐÂY 
 
   	  	 
 
 
		 
	 
 
  
	
	
		
	
	
	| 
		
		 
			
				24-09-2012, 03:25 PM
			
			
			
		 
	 | 
 
	
		
        
        
		
		        
 
                                |   	
                              
				
 				 Đầy Tớ Của Nhân Dân 
	
                 
 Facebook: https://www.facebook.com/tuthienbaocom 
		
 | 	
	
			
			 | 
	
			
	
                              
					  
					
					
					
				
			 | 
		  |  
		 
		
	 | 
 
	
	
		
	
		
		
			
			
				 
				Tinh thần phục hưng trong thơ Hồ Xuân Hương
			 
			 
			
		
		
 
 
 
 
 
 
1/ Xung   quanh những bài thơ nôm được truyền tụng của Hồ Xuân Hương, hai luồng ý   kiến "khen" và "chê" tồn tại dai dẳng − có lẽ đã từ rất lâu, và có thể   đoán rằng ngay từ khi những bài thơ ấy xuất hiện và bắt đầu sống trong   trí nhớ của các thế hệ công chúng − có một điểm đụng độ nhau kịch  liệt.  Ấy là chỗ mà người ta gọi là cái "tục và dâm": Có phải là có cái  "tục và  dâm" trong những bài thơ ấy? ý nghĩa của nó ra sao?  
 
Luồng ý kiến "chê" đương nhiên khẳng định sự có mặt của cái đó trong   những bài thơ ấy, và đấy là căn cứ cho một sự đánh giá phủ định, nhân   danh lợi ích của những điều được xem như là thuần phong mỹ tục, là sự   giáo hóa đạo đức.  
 
Luồng ý kiến "khen", để có thể tự đứng vững, đã phải viện đến nhiều thứ,   nào giá trị sáng tạo ngôn ngữ và hình tượng, nào giá trị trong lĩnh  vực  văn học trào phúng, v.v… và dường như khá lâu về sau, thời thế mới  xui  khiến người ta nêu thêm phương diện "chống phong kiến", phương diện  thể  hiện cái đẹp và sức sống tự nhiên của đời sống con người. Tuy thế  những  người chia sẻ luồng ý kiến này dường như khó tự thuyết phục trong  thâm  tâm rằng không hề có yếu tố gọi là "tục và dâm" trong những bài  thơ ấy,  và từ đây, cái thiện chí của họ đành phải lao vào những phiêu  lưu: hoặc  là lớn tiếng bảo: dám làm thơ như thế là "đại cách mạng",  hoặc là khiêm  nhường biện hộ cho từng chữ, từng bài, hoặc nữa, − khiêm  nhường hơn  nhưng cũng ít hiệu quả hơn, − làm những cuộc kiểm kê, những  sự loại trừ  (hẳn là với ý đồ "giảm thiểu" cái đã bị coi là tục và dâm)  trong một  tình hình "văn bản" hầu như rất ít có sở cứ rành rọt.  
 
Thói thường, chính những người có thiện tâm thiện chí, có mẫn cảm đúng   lại rất hay đuối lý trong các cuộc đôi co! Thế nhưng, vấn đề là, nếu để   cãi lại những người phản bác mình mà lại dùng đúng những cách gọi tên   cùng những hàm nghĩa như phía họ đề xuất thì tức là đã vô tình tự đặt   mình vào thế bị động! Đã mặc nhiên thừa nhận việc gọi những chuyện kia   trong những bài thơ ấy là "tục và dâm" theo hàm nghĩa tiêu cực, theo   đánh giá phủ định (coi đó là xấu, là có hại ít nhiều) thì khó lòng gỡ ra   được. 
 
2/ Trong   những bài thơ được truyền tụng của Hồ Xuân Hương chứa đựng những gì   khiến người ta gọi là "tục và dâm"? Phải chăng là việc mô tả − trực tiếp   hoặc ám chỉ, từ nghĩa đen hoặc thông qua nghĩa bóng − hoạt động giao   hoan nam nữ, bộ phận sinh dục của cả hai phía, nhất là "cái giống" của   người đàn bà? Tựu trung, có lẽ là như vậy. Và dù với một mỹ cảm siêu   thoát đến đâu cũng không thể thành thực để có thể phủ nhận sự hiện diện   của những cái đó ở phần di sản đáng giá nhất của nữ thi sĩ họ Hồ. 
 
Trong cách đọc của người bản ngữ (và là người lớn, người trưởng thành)   thì những "con cò mấp máy suốt đêm thâu", "một suốt đâm ngang thích   thích mau" (Dệt cửi), những cành thông "lắt lẻo" trong "cơn gió lốc",   thậm chí cả những chày kình ("chày kình tiểu để suông không đấm") và cán   cân tạo hóa (”cán cân tạo hóa rơi đâu mất") ở những ngữ cảnh cụ thể  của  từng bài thơ, đều ám chỉ cái "của quý" ở thân thể kẻ nam nhi. Cũng  như  vậy, không cần đợi đến những mô tả trực tiếp một cô gái đang nằm  ngủ  "lược trúc chải cài trên mái tóc / yếm đào trễ xuống dưới nương  long /  đôi gò Bồng Đảo hương còn ngậm / một lạch đào nguyên suối chửa  thông";  không cần đợi đến những tiếng lóng dân gian goi bộ phận kia là  "vông hay  trốc", "cuống với đầu", người ta (người bản ngữ) nhận ngay ra  sự ám chỉ  cái "tỉnh tình tinh" trên cơ thể người đàn bà (ca dao: người  dòn cái  tỉnh tình tinh cũng dòn!) qua những câu thơ về cái quạt "một  lỗ xâu xâu  mấy cũng vừa /…/ chành ra ba góc da còn thiếu / khép lại đôi  bên thịt  vẫn thừa", về một quả mít "da nó sù sì múi nó dầy", về cái  bánh trôi  nước "thân (em) vừa trắng lại vừa tròn", về cái giếng nước  "cầu trắng  phau phau đôi ván ghép / nước trong leo lẻo một dòng thông /  cỏ gà lún  phún leo quanh mép / cá diếc le te lách giữa dòng", về mặt  trăng "giữa  in chiếc bích khuôn còn méo / ngoài khép đôi cung cánh vẫn  khòm", và đặc  biệt là những bài thơ về hang động! Không phải chỉ có từ  "hang hầm" đầy  ẩn ý được đưa ra để đối đáp với chàng Chiêu Hổ, trong  thơ Hồ Xuân Hương  còn có vô số hang động được hình dung như là "cái  ấy": một động Hương  Tích… "khéo khéo phòm / nứt ra một lỗ hỏm hòm hom",  một hang Cắc Cớ  "trời đất sinh ra đá một chòm / nứt ra đôi mảnh hỏm  hòm hom / kẽ hầm rêu  mốc trơ toen hoẻn", một hang Thánh Hóa chùa Thầy  "lườn đá cỏ leo sờ rậm  rạp / lách khe nước rỉ mó lam nham", một hang gì  đó nữa ở đèo Ba Dội  "cửa son đỏ loét tùm hom nóc / bậc đá xanh rì lún  phún rêu", một cảnh  trí Kẽm Trống "ở trong hang núi còn hơi hẹp / ra  khỏi đầu non đã rộng  thùng"…  
 
Các thế hệ công chúng thưởng thức thơ Hồ Xuân Hương đã đọc ra nghĩa ám   chỉ, nghĩa thứ hai − sự miêu tả bộ phận sinh dục của con người, nam và   nữ, và hoàn toàn không phải họ cố tình hoặc thậm chí "bệnh hoạn" gán cho   thơ bà cái nghĩa ám chỉ ấy, mặc dù trong sự cảm thụ này, trong sự  "nhận  biết đặc biệt" này, người ta có thể phải huy động đến một sự từng  trải  nhất định, một kinh nghiệm sống nhất định, một kinh nghiệm tình  dục nhất  định, đã có được ở đời sống cá thể. Nhưng ngay ở khía cạnh  này, thơ Hồ  Xuân Hương tuyệt nhiên không làm chức năng "giáo khoa" về  sinh lý ở  những thời mà con người kinh qua cuộc sống vợ chồng trong  trạng thái còn  gần như là "vô giáo dục" về tình dục.  
 
Rồi chúng ta sẽ nói tới những ngọn nguồn văn hóa và ý nghĩa văn hóa của   sự mô tả ám chỉ này. Nhưng ở đây, từ khía cạnh sáng tác văn học, cần  ghi  nhận rằng Hồ Xuân Hương công nhiên coi là bình thường, là hợp lẽ  cái  việc đem thơ ca mô tả thân thể người đàn bà, mô tả ngay cả những bộ  phận  thân thể mà người ta chỉ nên che đậy lại cho đúng với sinh hoạt  văn  minh, thế nhưng lại có cả một ý thức hệ muốn quên hẳn đi, xóa hẳn  đi  trong cách hình dung con người. Hồ Xuân Hương coi thân thể và cả bộ  phận  sinh dục trên cơ thể con người như là tự nhiên, thiên tạo, nó  giống như  tự nhiên, thiên nhiên vậy. Đã thế "quyền" miêu tả nó trong  văn chương  cũng là cả một quyền năng tự nhiên. Chỉ có thể quan niệm và  sáng tạo  theo tâm niệm như thế khi mà hoặc là người ta chưa biết đến  hoặc là  người ta chủ tâm bước qua, chủ tâm vi phạm những sự răn đe, cấm  đoán nào  đó ngược hẳn tâm niệm này, chẳng hạn, những răn đe nhân danh  một chủ  nghĩa cấm dục hà khắc, nhân danh sự sợ hãi mọi cách thức phô  bày thân  thể, giống như sợ hãi phô bầy tư tưởng.  
 
Thật lý thú nếu có thể tìm hiểu xem ý niệm về "hang", "hang động" trong   ký ức cổ xưa của người Việt (và của cư dân nhiều nơi khác) thường gợi   lên những hàm nghĩa gì, và kèm theo đó, thử hiểu vì sao trong vô số   những cách ám chỉ "cái ấy" ở người đàn bà, thơ Hồ Xuân Hương lại thường   hay nói tới hang động đến như vậy? Dụng ý chăng? Hay chỉ là ngẫu nhiên,   do "trực quan", do lợi dụng thể tài thơ vịnh cảnh? Một điểm khác, đáng   lưu ý nữa trong lối "tức cảnh" khá đặc biệt − luôn bao gồm hai nghĩa   này, − là những chỗ nhà thơ không mỹ hóa, không "làm đẹp" đối tượng   (những hình dung từ đỏ loét, tùm hum, phòm, hỏm hòm hom, rậm rạp, lam   nham, v.v.. và v.v…. cực kỳ gợi tả và hết sức độc đáo, nhưng không "đẹp"   theo kiểu phổ biến mà người ta vẫn thấy ở thơ ngâm vịnh thù tạc, vốn   thường là chỗ để người ta thi vị hóa cái nên thơ nên hoạ của đối tượng   ngâm vịnh). Tiếng cười trào lộng đã làm biến đổi cách hình dung sự vật,   và sự miêu tả ở đây trở nên gần gũi với các nguyên tắc miêu tả của nghệ   thuật nghịch dị (grotesque): sự chuyển hóa các bộ phận thân thể con   người với các sự vật tự nhiên, sự phóng đại quá cỡ, lối "làm méo" cố ý   các tỷ lệ thông thường, v.v. (Có lẽ sẽ không phải là không nghiêm túc   nếu đi vào nghiên cứu nghệ thuật nghịch dị trong các bộ môn văn nghệ ở   ta từ cổ xưa mà một trong những đại diện rõ rệt của văn học là Hồ Xuân   Hương). (1)  
 
Đã không chút ngần ngại mô tả những chỗ kín của thân thể con người, nữ   sĩ họ Hồ cũng không ngần ngại mô tả hoạt động giao hoan, và cũng hình   dung nó như một cái gì rất tự nhiên, thiên nhiên. Các thế hệ công chúng   truyền tụng thơ bà không chỉ nhạy bén nhận ra "chuyện ấy" qua những trò   nói lái "đá đeo", "lộn lèo", "đếm lại đeo", "đáo nơi neo", "suông  không  đấm", qua những cụm từ đầy ngụ ý "tra hom ngược", "rút nút xuôi";  thậm  chí qua những câu thơ rất mực trữ tình "Mảnh tình san sẻ tỉ con  con",  hay là "Lưng khoang tình nghĩa dường lai láng / nửa mạn phong ba  luống  bập bềnh ".  
 
Trong những xúc tiếp suồng sã của người Việt ngày nay, ta vẫn thấy có   trò nói lỡm nhau xung quanh những chữ nghĩa, những sự vật có thể gợi lên   ý niệm về "cái ấy", "chuyện ấy" − chẳng rõ đây là những nét di truyền   từ xa xưa mà ở thời mình Hồ Xuân Hương đã biết sử dụng, hay là cái trò   chơi này đã tự bà mà ra? Có phải bà đã luyện cho con mắt người Việt  nhìn  đâu cũng dễ hình dung ra "chuyện ấy"? Nhìn vào khung cửi thì thấy  tư  thế "hai chân đạp xuống năng năng nhắc / một suốt đâm ngang thích  thích  mau"; nhìn lên mái lều thì thấy "xỏ kẽ kèo tre đốt ngẳng ngheo";  nhìn  cảnh đèo núi thì thấy "lắt lẻo cành thông cơn gió lốc / đầm đìa lá  liễu  giọt sương gieo", nhìn cảnh đánh đu ngày xuân thì thấy "trai du  gối hạc  khom khom cật / gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng" và "hai hàng  chân ngọc  duỗi song song" (một sự mô tả biểu cảm có thể khiến ta liên  tưởng đến  các tư thế của ba-lê và trượt băng nghệ thuật hiện đại!), để  rồi nghĩ  đến ngày vui sẽ hết thì lại hình dung cái cảnh ngụ ý khá thô  bạo: "cọc  nhổ đi rồi lỗ bỏ không". 
 
Quả là không thể giúp gì được cho những ai vẫn muốn "bênh vực" thơ Hồ   Xuân Hương theo lối cố tình giảm nhẹ cái ý ám chỉ chuyện giao hoan trai   gái. Bởi cái nghĩa thứ hai, nghĩa ám chỉ "chuyện ấy" nó lộ liễu quá. Đã   từng trách ai đó "còn thú vui kia sao chẳng vẽ" thì đến lượt mình, bà  đã  vẽ, bằng ngôn ngữ, bằng tiếng Việt. Đối với bà, đó là chuyện tự  nhiên  của "người ta lúc trẻ trung" kia mà! "Ngày xanh sao nỡ tạnh lòng  son?",  đến như cô bạn trong cảnh lẽ mọn "năm thì mười hoạ hay chăng chớ  / một  tháng đôi lần có cũng không" đã là thiếu thốn khó mà chịu đựng  được mãi,  nói chi những tình cảnh trái tự nhiên như của đám quan thị −  đành coi  "chuyện ấy" không còn có thể là chuyện của mình mà chỉ còn là  của người  ta − "rúc rích thây cha con chuột nhắt / vo ve mặc mẹ cái ong  bầu", −  hay là tình cảnh của các vị tu hành "chày kình tiểu để suông  không đấm"…  Hồ Xuân Hương hoàn toàn "thông cảm" thậm chí đồng cảm với  cái "thú vui "  − "chồn chân mỏi gối vẫn còn ham", "mỏi gối chồn chân  vẫn muốn trèo" −  này của "người ta lúc trẻ trung", từ các chị em cùng  lứa, người lẽ mọn,  kẻ góa bụa, cho đến các bậc vua chúa, hiền nhân quân  tử. Bà gọi nó là  "thú vui", và ta nên hiểu nó theo tinh thần một triết  lý tự nhiên tự  phát hơn là gán cho nó cái hàm nghĩa hiện đại của "cách  mạng tình dục". 
 
3/Quả   là không thể − và đã thế thì chẳng nên − giảm nhẹ hay làm ngơ cho Hồ   Xuân Hương về việc đã mô tả − trực tiếp hoặc ám chỉ − bộ phận sinh dục   và hoạt động giao hoan nam nữ.  
 
Giải thích điều này bằng cách phỏng đoán về một cuộc đời tình ái không   thỏa mãn, về một "căn tính dâm", một thể chất ít nhiều đặc biệt, luôn bị   những "cái ấy", "chuyện ấy" ám ảnh, v.v. − ở những mức khác nhau,  nhiều  lắm cũng chỉ dừng lại ở bình diện tâm lý sáng tác chứ không thể  nói  được gì về tầm cỡ, ý nghĩa của những sáng tác ấy, càng khó cắt  nghĩa sức  sống lâu dài và mạnh mẽ của những sáng tác ấy qua suốt nhiều  thế hệ  công chúng người Việt. 
 
Có vẻ như Hồ Xuân Hương khá lẻ loi so với đương thời trong cái tạm gọi   là "xu hướng" sáng tác nêu trên. Nhìn thật chăm chú, gom nhặt thật chắt   chiu trong văn học thành văn đương thời thì người ta có thể nêu ra được   một câu thơ Nguyễn Du tả nàng Kiều lúc tắm − "dầy dầy sẵn đúc một tòa   thiên nhiên" (tính ước lệ của ngôn từ ở đây không xóa được sự đồng cảm   giữa tác giả Truyện Kiều với Hồ Xuân Hương trong sự khẳng định đầy hân   hoan cái đẹp trần tục, tự nhiên ở cơ thể người đàn bà), một vài câu thơ   khơi gợi những ám ảnh xa xôi về chuyện lứa đôi ân ái trong Chinh phụ   ngâm, Sơ kính tân trang và nhất là Cung oán ngâm khúc; kiểu như: "cái   đêm hôm ấy đêm gì / bóng dương lồng bóng đồ mi trập trùng / chồi thược   dược mơ mòng thụy vũ / đóa hải đường thức ngủ xuân tiêu" (bù lại cái ước   lệ và chất "trướng gấm màn là", những câu thơ này đôi khi lại gợi dục   "ướt át" hơn cả Hồ Xuân Hương!). Chỗ gặp gỡ của Hồ Xuân Hương với nhiều   tác giả đương thời là ở cảm hứng giải phóng đời sống tình cảm, trước  hết  là tình cảm yêu đương đôi lứa, và chính chỗ gặp gỡ này, cái điểm  tương  đồng này là một trong những yếu tố tạo nên tinh thần phục hưng  trong văn  học đương thời. Nhưng đi xa trong cái lĩnh vực "cắc cớ" của  mình thì Hồ  Xuân Hương vẫn cứ là đơn độc so với văn học xứ mình thời  mình. Thế  nhưng, chỉ cần đặt Hồ Xuân Hương vào một sự liên hệ tương đối  xa hơn về  thời gian và rộng hơn về địa lý, thì bà cũng chẳng mấy lẻ  loi, bà lại  càng không phải là người đầu tiên đưa những "cái ấy" và  những "chuyện  ấy" vào văn chương và nghệ thuật. 
 
Trong văn hóa nghệ thuật − dân gian và thành văn − cổ đại và trung đại   của nhiều dân tộc, người ta thấy không hiếm sự mô tả (cả "tả thực" lẫn   cách điệu hóa) các bộ phận sinh dục nam và nữ, cảnh giao hoan trai gái.   Các hình tượng linga và yôni trong nhiều nền văn hóa Nam Á và Đông Nam Á   (ví dụ gần là những di tích di vật ở văn hóa Chàm trên lãnh thổ Việt   Nam hiện nay) chính là sự cách điệu hóa hai cái “của quý” đó mà thôi.   Những hình tượng ấy được thờ phụng, những cảnh giao hoan được tái hiện   (ít nhiều cách điệu, đôi khi “cơ giới”, “thô lỗ”) trong các nghi lễ phồn   thực, bằng cách đó người ta diễn đạt lời khẩn nguyền cho mùa màng bội   thu, gia súc sinh sôi và đàn bà mắn đẻ. Ở không ít nơi ngay trên vùng   văn minh sông Hồng của người Việt cổ, người ta cũng còn thấy những dấu   vết của các nghi lễ phồn thực ấy, (2) và một trong những chứng cứ hiển   nhiên là hình tượng tả thực bốn cặp nam nữ giao hoan trên nắp thạp đồng   Đào Thịnh. Một nhà nghiên cứu, là ông Huỳnh Hữu Ủy gần đây trong một  bài  viết về trò hô bài tới (tương tự như hát bài chòi, nhưng ít phổ  biến  hơn) ở vùng Nam Trung Bộ cũng đã cho thấy dấu hiệu linga và yoni  trong  những quân bài, và cả trong cách hô gọi khi hai quân bài ấy xuất  hiện  trong cuộc chơi. Chúng ta cũng có thể thấy dấu vết của nghi lễ  phồn thực  ấy ở cả những lễ hội trong thời quân chủ, ví dụ lễ hội chùa  Hương với  các tục lệ "tắt đèn một đêm" mà những người cao tuổi ngày nay  còn nhắc  đến (do được "từng trải" hay do được kể lại?), − ấy là cái  thời gian lễ  hội đặc biệt, mở ra một "cuộc sống thứ hai", cho phép  những ngẫu hợp kỳ  lạ mà sau đó, nếu có những đứa trẻ được sinh ra thì  dân làng sẽ coi là  "trời phật ban cho" và mẹ của đứa trẻ không bị gọt  tóc bôi vôi theo lề  luật phong kiến làng xã (các tục lệ sờ vào các mỏm  đá có hình "cái ấy"  trong lễ hội chùa Hương cũng cho thấy dấu vết của  văn hóa phồn thực  này). Phật giáo đến nước ta − nhất là luồng Thiền  tông vào ta từ phía  Bắc − đã làm lép xẹp khuôn ngực đàn bà và dấu biến  cái bộ phận giữa hai  cặp đùi khuất vào một khối đặc mô tả nửa thân dưới  bị che phủ nhiều lớp  cà sa trên các pho tượng Quan âm, bồ tát. Trong  khi đó, Ấn Độ giáo, khi  thẳng từ hướng Tây Trúc đến, đã giữ nguyên trên  các hình tượng nữ thần  và vũ nữ (ví dụ các tượng Chàm) cả khuôn ngực  tròn căng, cả cặp đùi  trong những tư thế hớ hênh nhất… Nhớ đến cả một  truyền thống văn hóa  phồn thực hùng hậu và dạt dào niềm vui thế tục, và  thử đối chiếu với thơ  Hồ Xuân Hương, ta sẽ thấy bà chẳng hề "cá biệt",  chẳng hề "bệnh lý"  chút nào. Các hình tượng linga ở bà quả có nghèo  nàn, ít biểu cảm (ví  dụ, so với các hình tượng, linga ở các tháp chùa  vùng Đông Á) nhưng hình  tượng yôni, hình tượng giao hoan ở thơ bà thật  phong phú và đặc sắc. Nó  thường được hình dung trong thế núi hình sông,  trong dáng vẻ hang động  lạ kỳ, cắc cớ, không "đèm đẹp" nhưng đầy hấp  dẫn. Đôi khi nó được tạc  trong tư thế vừa kỳ ảo và kỳ vĩ − "từng trên  tuyết điểm pha đầu bạc /  thớt dưới sương pha đượm má hồng", được ám chỉ  bằng một không gian và  thời gian vĩ mô, vũ trụ: "khép cánh kiền khôn,  ních chặt lại… / lỏng  then tạo hóa, mở toang ra". Nó không phải là cá  biệt của riêng ai, nó là  chung của chủng loại người, và việc công khai  nói đến nó trong giọng  đùa cợt suồng sã là bằng chứng của một lối sống  vui nhộn, hội hè. 
 
Đến đây, chúng ta có thể nhận xét rằng Hồ Xuân Hương đã làm sống lại   trong văn học tiếng Việt − văn học thành văn ở giai đoạn cổ điển của nó −   cả một truyền thống văn hóa phồn thực hùng hậu. Văn hóa này đã hình   thành từ rất lâu và sống rất bền vững trong đời sống dân gian, nhưng rất   khó thâm nhập vào văn học thành văn, nơi mà các thế hệ tác giả lần  lượt  là tăng lữ rồi đến nho sĩ. Phật giáo đến từ phương Bắc và Nho giáo  của  chính phương Bắc đến với văn học thành văn của người Việt ngay từ  buổi  đầu hình thành qua suốt mấy thế kỷ đã luyện cho văn học này những  phương  thức, những chất liệu, những mỹ cảm đậm màu khắc dục, hướng về  những vẻ  đẹp siêu thoát, cao khiết. Trong khi đó, nằm ngoài văn chương  của tăng  lữ và nho sĩ, ở đời sống dân gian vẫn tồn tại từng mảng hoặc  từng yếu tố  của văn hóa phồn thực, thậm chí cả nghi lễ phồn thực cổ  xưa.  
 
Có vẻ như không ít tác giả của văn học thành văn đã từng sống một cuộc   sống hai mặt trong văn hóa: trở về những giao tiếp và sinh hoạt thông   tục thì họ − giống như chàng Chiêu Hổ bạn của Xuân Hương − cũng sống với   những tập quán suồng sã quen thuộc của nó, nhưng hễ trở lại trước án   thư để làm văn chương một cách nghiêm túc thì tinh thần suồng sã biến   mất, tinh thần khắc dục lại ngự trị. Nói cho đúng, giữa hai tâm thế nêu   trên hẳn đã có cả một cuộc vật lộn, thâm nhập và loại trừ nhau dai dẳng   mà kết quả là hình thành những đặc tính dân tộc trong văn học thành  văn  của người Việt. Nhưng cho đến trước thời Hồ Xuân Hương (và sau bà  rất  lâu nữa, thậm chí đến thời chúng ta) văn học thành văn của người  Việt  vẫn thiên về những vẻ đẹp siêu thoát, thanh cao, khắc dục.(2)  Nhiều tác  giả đương thời bà đã làm mềm đi những màu vẻ khắc dục ấy, đem  nhu cầu  yêu đương đôi lứa, đem chuyện tình yêu làm đề tài và nội dung  văn học.  Hồ Xuân Hương, quyết liệt hơn, đã đem cả những phương tiện,  chất liệu và  tinh thần của văn hóa phồn thực vào văn học, giải phóng  văn học khỏi xu  hướng khắc dục. Đây là một phương diện quan trọng của  tình thần phục  hưng trong thơ Hồ Xuân Hương. Bản thân việc thơ của bà −  trong số đó có  những bài thơ hai nghĩa ám chỉ "cái ấy", "chuyện ấy" −  được nhiều thế hệ  công chúng thích thú và truyền tụng cũng chứng tỏ các  yếu tố của văn  hóa phồn thực cổ xưa vẫn còn sống trong ký ức văn hóa  và nhu cầu văn hóa  của người Việt thời nay. 
 
4/ Phương   thức ám chỉ "chuyện ấy" bằng cách tận dụng các lối nói lái, nói lỡm   hoặc bằng cách tạo ra những hình tượng ẩn dụ (ví ngầm, gợi ngầm) rõ ràng   là có liên hệ trực tiếp với hàng loạt những hiện tượng ngôn ngữ trong   sinh hoạt của cộng đồng người Việt: các trò nói lái, nói ngoa, chửi  thề,  sỉ mắng, nguyền rủa. Cả loạt những hiện tượng này tiếc rằng cho  đến  hiện nay vẫn còn chưa được nghiên cứu như một loạt hình văn  hóa-lịch sử.  Trong các hình thức giao tiếp của xã hội văn minh hiện  đại, nói tục,  chửi thề là bất lịch sự, là thiếu văn hóa. Nhưng nếu một  ai đó có cái ý  định loại trừ triệt để các hiện tượng này khỏi cửa miệng  và trí nhớ của  những người bản ngữ thuộc mọi dân tộc thì đó sẽ là một  ảo tưởng thuần  túy. Không phải chỉ ngoài vỉa hè, đầu đường xó chợ mới  nghe thấy loại  ngôn ngữ này, ngay những người nghiêm túc, văn hóa cao  cũng biết nói  thậm chí thích nói bằng ngôn ngữ đó, trong những khung  cảnh nhất  định.(3) Nghĩa là, hệ ngữ vựng nói tục chửi thề vẫn có một  sức sống nào  đấy, ứng với một trạng thái tâm sinh lý nào đấy, một ngữ  cảnh giao  tiếp-phát ngôn nào đấy, và liên quan đến một "ký ức văn hóa  di truyền"  nào đấy ở con người hiện đại. Nhưng cả một hệ từ vựng không  hề nghèo nàn  của nó đã có từ xa xưa là gắn với những loại hình sinh  hoạt văn hóa  nào, chức năng và đặc tính, giá trị hàm nghĩa của chúng ra  sao, v.v. và  v.v. − chúng ta còn chưa được biết. Có thể phỏng đoán  rằng nguyền rủa,  chửi mắng là những hành vi của nghi lễ sử thi cổ xưa,  có chắc năng ma  thuật, thần chú, nhằm biểu thị cái ý chí khu trừ sức  tác động của những  thế lực nhất định, hữu hình hay siêu hình. Nói tục  tức là nói những từ  (từ bản địa, từ "nôm") trỏ các bộ phận ở phần dưới  thân thể − cơ quan  sinh dục và các bộ phận gắn với các hành vi xác  thịt-vật chất như ăn  uống, bài tiết, giao hợp, chửa đẻ, v.v… Nói tục,  thề tục, nói ngoa… − là  những biểu hiện của việc muốn vi phạm các phép  tắc nói năng chính  thống. Hiệu quả của việc sử dụng bảng từ vựng "tục  tĩu" là suồng sã hóa  cả đối tượng được nói tới lẫn người tiếp chuyện,  tạo ra không khí giao  tiếp thân mật xuề xòa, kéo kẻ (hoặc điều) được  nói tới thấp xuống và  xích lại gần mình, ngang hàng với mình. Những  loại hình ngôn ngữ này có  từ xa xưa và khó mà nói rằng nó lại ra đời  trong "tư thất": nó nhất định  phải gắn với các hình thức giao tiếp công  cộng, không phải các hình  thức giai tiếp quan phương trang nghiêm mà  là các hình thức lễ hội dân  gian, trong đám hội, giữa đường giữa bãi. 
 
Khái quát những hiện tượng sinh hoạt ngôn ngữ kiểu này và gắn chúng với   sinh hoạt lễ hội dân gian cổ đại và trung đại của mọi dân tộc, đặc biệt   là những hội cải trang (carnaval), nhà nghiên cứu M.M. Bakhtin (4) coi   đây là những thể loại đặc thù của ngôn ngữ suồng xã-quảng trường (chữ   quảng trường tạm dịch ở đây nên hiểu như không gian sinh hoạt rộng: bến   bãi, phố xá, chợ búa, v.v…). Được dùng vào sinh hoạt lễ hội dân gian,   các lời nguyền rủa mất đi chức năng ma thuật-thần chú, các lời nói tục,   nói ngoa cũng không còn đơn giản chỉ là biểu hiện vi phạm các phép tắc   nói năng chính thống nữa, chúng trở thành hình thức và phương tiện cho   những trò đùa nghịch, những cách nói năng mập mờ theo lôgic "lộn trái,   đảo ngược" thấm nhuần một tinh thần "tương đối hóa" vui nhộn. 
 
Có thể nói, cả các lối nói lái, nói lỡm "đố tục giảng thanh" v.v… của   văn hóa dân gian người Việt lẫn lối ám chỉ ở thơ Hồ Xuân Hương đều có   một "ngữ pháp" chung là "dịch" tất cả mọi thứ sang ý nghĩa tính dục, ý   nghĩa vật chất, xác thịt. (Điều này cũng phần nhiều tương đồng với các   lối nói đùa nghịch thịnh hành trong dân gian và cả trong các trường dòng   của châu Âu Cơ-đốc giáo trung đại).(5) Đây chủ yếu không phải là một   phương thức thỏa mãn cơ năng (giải thoát ham muốn xác thịt hoặc làm thư   giãn cơ thể mệt mỏi vì lao động). Đằng sau thao tác "ngữ pháp" nghịch   ngợm này là nguyên tắc "hạ bệ", "giải thiêng" rất đặc trưng cho tinh   thần phục hưng. Tất cả những gì là trên, là cao (tinh thần, lý tưởng,   trừu tượng) đều bị chuyển vị sang bình diện vật chất-xác thịt, được coi   như là thấp, là dưới. Áp dụng vào thân thể, đó là sự đối lập giữa mặt   (đầu) với các phần thân dưới (cơ quan sinh dục, bụng, đít).  
 
Ta thấy rất rõ cách đối lập này ở Hồ Xuân Hương. Bà dịch các hình ảnh   người (nhà sư, giới tu hành), các hình ảnh thiên nhiên (hang động, núi   non, trăng, giao thừa), đồ vật (cái quạt, con ốc, quả mít, khung dệt,   bánh trôi…) ra các hình ảnh "cái ấy", "chuyện ấy". Ý nghĩa "hạ bệ-giải   thiêng" đối với uy tín tinh thần của giới tu hành thì khá dễ hiểu. Nhưng   còn đối với các đồ vật, cảnh vật? Có lẽ ở đây, ý nghĩa này được áp  dụng  cho những ý đồ linh thiêng hóa hoặc thi vị hóa phong cảnh, tức là  "hạ  bệ-giải thiêng" cho một loại ý niệm trừu tượng lý tưởng về phong  cảnh  hơn là cho bản thân phong cảnh. Cần phải nói rằng ý nghĩa "hạ  bệ-giải  thiêng" ở đây rất xa lạ với tinh thần phê phán phủ định thuần  túy. Hồ  Xuân Hương không "hạ bệ" theo lối xóa sổ, xóa sạch đối với bất  cứ cái  gì; bà chỉ − bằng tiếng cười − kéo tất cả về cõi tục, về đời  sống tự  nhiên thông thường mà biểu hiện là đời sống tính dục. Tinh thần  này rất  gần gũi với điều mà Bakhtin goi là "tiếng cười lưỡng trị"  (ambivalent)  vừa chôn vùi vừa tái sinh của văn học phục hưng. Yếu tố  vật dục-xác thịt  ở Hồ Xuân Hương là phương tiện gây cười hơn là phương  tiện gợi dục, nó  mang tính phổ quát chứ chưa gắn với phương diện cá  nhân ích kỷ của con  người tư sản sẽ xuất hiện về sau, nó đối lập với  tinh thần khắc dục, đối  lập với tinh thần sùng phục các quy phạm chính  thống vốn thấm đẫm tính  giáo điều và sự trang nghiêm phiến diện hẹp  hòi. Đây là một phương diện  nữa của tinh thần phục hưng ở sáng tác Hồ  Xuân Hương. Bà đã đưa vào văn  học cả một vỉa ngôn ngữ trào lộng suồng  sã dân gian, tạo ra một phương  hướng đối trọng với cái phương hướng  đang ngày càng trở nên chủ đạo và  tuyệt đối trong văn học thành văn là  ra sức noi theo thậm chí bắt chước  không phải tất cả mà chỉ một loại  mẫu mực của văn học lớn phương Bắc. 
 
Trong số những tác gia lớn của văn học Việt Nam đương thời, Hồ Xuân   Hương dân chủ nhất. Bà cũng khác hẳn và mạnh mẽ hơn hẳn các tác giả   khuyết danh đã tạo ra cả một loạt truyện nôm: nếu như họ đã dân tộc hóa   những quy phạm của đạo lý phong kiến (vốn được du nhập từ phương bắc),   đại chúng hóa những mẫu mực của văn chương bác học (nghĩa là đối với  họ,  những cái đó vẫn là chuẩn, là căn cứ không thể thay thế; họ chỉ làm  cái  việc di chuyển chúng từ cung đình về làng xã, biến điệu chúng chút  ít  mà thôi) thì Hồ Xuân Hương làm theo hướng ngược lại với họ; bà đem  vào  văn học cả tinh thần thế giới quan của văn hóa dân gian lẫn những  phương  tiện ngôn ngữ đặc thù của nó. Trong quá trình văn học thành văn  của  người Việt, phương hướng này tuy không giành được ưu thế chủ đạo,  nhưng  không hề bị triệt tiêu khỏi văn học dân tộc. Ở những thời kỳ về  sau,  phương hướng này thường có những người kế tục khác nhau, không  thật đông  đảo nhưng bao giờ cũng độc đáo. Dẫu sao, những tác giả kế tục  ấy vẫn  dần dần làm cho tiếng cười trở thành đả kích phủ định một  chiều, không  còn giữ được tính lưỡng trị phổ quát như ở Hồ Xuân Hương  nữa. 
 
 |  
  
 
		
		
		
 
  
 | 
 |   
 
    BÁO LỖI BÀI VIẾT
 Hãy gửi cốc trà đá cho TTB tài khoản ngân hàng phía dưới hoặc paypal : 
    paypalme/tuthienbao
 Giúp có kinh phí duy trì Free  
 
 
TÌM BÀI VIẾT KHÁC SEARCH TRÊN THANH TìM KIẾM PHÍA TRÊN WEB 
 
 
		
		
		
			
			
			
			
				 
			
			
			
			
			
			
			
				
			
			
			
		 
	
	 | 
 
 
 
 
	 
	
		
	
	
		
 
  	 	 
 
	
ADS
	
	
 
 
	
	
Miễn trừ trách nhiệm.NẾU CÓ ĐIỀU KIỆN HÃY MUA SÁCH ỦNG HỘ NHÀ XUẤT BẢN 
© Tuthienbao.com- TTB chúng tôi không cung cấp chức năng đăng ký thành viên để viết bài hay bình luận - Nếu có khiếu nại chung tôi sẽ xử lý.Mọi dữ liệu về diễn đàn trên website này đều được chúng tôi và các thành viên tham gia website tổng hợp từ  tất cả các trang website .Do đó, chúng tôi không chịu trách nhiệm về những dữ liệu được chia sẻ tại đây.Truyện Nội Dung được chia sẻ chỉ với mục đích giải trí, phi lợi nhuận. Mọi bản quyền thuộc về tác giả và nhà xuất bản gốc.Nếu có yêu cầu gỡ bỏ, xin liên hệ qua email
  
truyen tranh,
truyen tranh 8,truyen tranh hay,
truyen tranh online,
ebook,ebook ngon tinh,
van hoc lop 5,van hoc lop 6,van hoc lop 7,van hoc lop 8,van hoc lop 9,van hoc lop 10,van hoc lop 11,van hoc lop 12,
 
     | 
  
 
 
Powered by: vBulletin v3.8.2
 Copyright ©2000-2025, Jelsoft Enterprises Ltd.
 
	
	
		
	
	
 
      |