Đọc bài này cụ thể nhất:
DOWNLOAD
Nguyễn Khoa Điềm thuộc lớp thi sĩ trưởng thành trong  kháng chiến chống Mĩ. Những năm 1970, 1971,... ông sống và hoạt động  tại chiến trường Trị - Thiên; trường ca "Mặt đường khát vọng" được ông  sáng tác vào thời gian ấy. Chương V "Đất Nước" trích trong trường ca  "Mặt đường khát vọng".
                     
“… Trong anh và em hôm nay
    
    Đều có một phần Đất Nước
    
    Khi hai đứa cầm tay
    
    Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
    
    Khi chúng ta cầm tay mọi người
    
    Đất Nước vẹn tròn, to lớn
    
    Mai này con ta lớn lên
    
    Con sẽ mang Đất Nước đi xa
    
    Đến những tháng ngày mơ mộng
    
    Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
    
    Phải biết gắn bó và san sẻ
    
    Phải biết hoà thân cho dáng hình xứ sở
    
    Làm nên Đất Nước muôn đời…”
      
      “Mặt đường khát vọng” là trường ca độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm, ra đời  trong chiến tranh ác liệt thời chống Mĩ, tại chiến trường Trị - Thiên -  một điểm nóng - trên chiến trường miền Nam vào năm 1971. Bài thơ đã  truyền đến người đọc bao xúc động, tự hào về đất nước và nhân dân. Trong  bài “Có một thời đại mới trong thi ca”, Trần Mạnh Hảo viết:
    
    “Vào đêm giao thừa  Tết âm lịch 1973 - 1974, dưới rừng Phước Long,  chúng tôi xúc động nghe trích đoạn “Đất Nước” trích trong trường ca “Mặt  đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm phát trên Đài phát thanh. Những  suy nghĩ về đất nước, về dân tộc đã được nhà thơ hiện đại hoá bằng chất  suy tư lắng đọng và cảm xúc mãnh liệt”.
    
    “Đất Nước” - là chương V trong trường ca “Mặt đường khát vọng” dài 110  câu thơ (trong “Văn 12” chỉ trích 89 câu). Phần đầu (42 câu) là cảm nhận  của nhà thơ trẻ về Đất Nước trong cội nguồn sâu xa văn hóa - lịch sử,  và trong sự gắn bó thân thiết với đời sống hằng ngày của mỗi con người  Việt Nam. Phần thứ hai, cảm hứng chủ đạo về Đất Nước là sự ngợi ca,  khẳng định tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân. Từ đó, nhà thơ nhận diện phát  hiện Đất Nước trên bình diện về địa lý, lịch sử, văn hoá, ngôn ngữ,  truyền thống tinh thần dân tộc - nền văn hiến Việt Nam. Vẻ đẹp độc đáo  của chương V “Đất Nước” là tác giả vận dụng sáng tạo nhiều yếu tố văn  hoá dân gian, tục ngữ, ca dao, dân ca, truyện cổ, phong tục…, cùng với  cách diễn đạt bình dị, hiện đại gây ấn tượng vừa gần gũi vừa mới mẻ cho  người đọc.
    
    Mười ba câu thơ dưới đây trích trong phần đầu chương “Đất nước” thể  hiện cảm nhận: Đất Nước gắn bó thân thiết với mỗi con người Việt nam:
    
    
Trong anh và em hôm nay
    
    Đều có một phần Đất Nước
    
    (…)
    
    Làm nên Đất Nước muôn đời…”.
    
    Trong chương V trường ca “Mặt đường khát vọng”, hai từ Đất Nước và Nhân  Dân đều được viết hoa, trở thành “mĩ tự” gợi lên không khí cao cả,  thiêng liêng và biểu lộ cao độ cảm xúc yêu mến, tự hào về Đất Nước và  Nhân Dân. Chủ thể trữ tình là “anh và em”, giọng điệu tâm tình thổ lộ,  sâu lắng, thiết tha, ngọt ngào. Cấu trúc đoạn thơ 13 câu thơ là cấu trúc  tổng - phân - hợp mà ta cảm nhận được tính chất chính luận của ngòi bút  thơ Nguyễn Khoa Điềm.
    
    1. Hai câu thơ mở đoạn là sự thức nhận chân lý về cội nguồn, về truyền  thống, về lịch sử,… Đất Nước gần gũi và gắn bó thân thiết với “anh và  em”, với mọi người:
    
    
“Trong anh và em hôm nay
    
    Đều có một phần Đất Nước”.
    
    Chỉ “một phần” nhỏ bé thôi, nhưng xiết bao gần gũi, gắn bó, yêu thương  và tự hào. Từ khái niệm, ý niệm “mỗi công dân là một phần tử của cộng  đồng, của Đất Nước” được diễn đạt một cách “mềm hóa” qua tiếng nói tâm  tình của lứa đôi, của “anh và em”.
    
    2. Bảy câu thơ tiếp theo mở rộng ý thơ trên từ “hai đứa” đến “mọi người”, từ “hôm nay” đến “ngày mai” và muôn đời mai sau.
    
    
“Khi hai đứa cầm tay
    
    Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm”.
    
    Ở phần trước, nhà thơ cảm nhận: “Đất Nước là nơi anh đến trường - Nước  là nơi em tắm - Đất Nước là nơi ta hò hẹn - Đất Nước là nơi em đánh rơi  chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”. Và “khi hai đứa cầm tay” thì một mái ấm,  tổ ấm gia đình đã được xây dựng. Gia đình là “một phần” của Đất Nước.  Chỉ có tình yêu và hạnh phúc gia đình mới tạo nên sự “hài hòa, nồng  thắm” với tình yêu quê hương Đất Nước. Đó là bản chất thống nhất trong  tình cảm của thời đại mới. Ý tưởng ấy đã được Nguyễn Đình Thi thể hiện  trong một tứ thơ sâu và đằm về nỗi “nhớ”:
    
    
“Anh yêu em như anh yêu đất nước
    
    Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần…”.
    
    Từ tình yêu và hạnh phúc lứa đôi mà biết yêu gia đình, yêu quê hương,  yêu đất nước, mới có thể có tình nghĩa sâu nặng “Đất Nước trong chúng ta  hài hòa nồng thắm”, mới tìm thấy đất nước quê hương cả trong niềm vui  và nỗi đau của anh, của em, của bao lứa đôi khác:
    
    
“Xưa yêu quê hương vì có chim có bướm
    
    Có những lần trốn học bị đòn roi.
    
    Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất
    
    Có một phần xương thịt của em tôi”.
    
    (Giang Nam)
    
    Nói về cội nguồn của giòng giống, của dân tộc, Nguyễn Khoa Điềm nhắc  lại sự tích “Trăm trứng”: “Đất là nơi Chim về - Nước là nơi Rồng ở - Lạc  Long Quân và Âu Cơ - Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng - Những ai đã  khuất - Những ai bây giờ…”. Từ huyền thoại thiêng liêng ấy mới có ý thơ  này:
    
    
“Khi chúng ta cầm tay mọi người
    
    Đất Nước vẹn tròn, to lớn”
    
    Hai chữ “cầm tay” trong câu thơ “Khi hai đứa cầm tay” có nghĩa là giao  duyên, là yêu thương. “Khi hai chúng ta cầm tay mọi người” là đoàn kết,  là yêu thương đồng bào,… Mọi người có cầm tay nhau, yêu thương giúp đỡ  lẫn nhau mới có hình ảnh “Đất Nước vẹn tròn, to lớn”, mới có đại đoàn  kết dân tộc và sức mạnh Việt Nam. Từ “hài hòa, nồng thắm” đến “vẹn tròn,  to lớn” là cả một bước phát triển và đi lên của lịch sử dân tộc và đất  nước. Đất Nước được cảm nhận là sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc.  Chỉ khi nào “ba cây chụm lại nên hòn núi cao”, và chỉ khi nào “lá lành  đùm lá rách”, “Người trong một nước phải thương nhau cùng” thì mới có  hình ảnh đẹp đẽ, thiêng liêng “Đất Nước vẹn tròn, to lớn”.
    
    Bốn câu thơ trên đây cấu tạo theo phép đối xứng về ngôn từ: “Khi hai  đứa cầm tay”… “Khi chúng ta cầm tay mọi người”, “Đất Nước hài hoà nồng  thắm…”. “Đất Nước vẹn tròn, to lớn”. Cách diễn đạt uyển chuyển, sinh  động ấy có ý nghĩa thẩm mĩ sâu sắc: hình thức này thể hiện nội dung ấy,  nội dung ấy được diễn đạt bằng hình thức này. Phép đối xứng làm cho thơ  liền mạch, hài hòa, gắn bó, thể hiện rõ ý thơ: tình yêu lứa đôi, tổ ấm  hạnh phúc, gia đình, tình yêu quê hương đất nước, tinh thần đại đoàn kết  dân tộc là những tình cảm đẹp, làm nên truyền thống “yêu nước, yêu nhà,  yêu người” và đó là sức mạnh Việt Nam.
    
    Đất nước “Nguồn thiêng ông cha”, đất nước “Trong anh và em hôm nay”,  đất nước trong mai sau. Như một nhắn nhủ, như một kỳ vọng sáng ngời niềm  tin:
    
    
“Mai này con ta lớn lên
    
    Con sẽ mang Đất Nước đi xa
    
    Đến những tháng ngày mơ mộng”.
    
    Nguyễn Thi, Anh Đức, Lê Anh Xuân, Sơn Nam… đã tạo nên giọng điệu Nam Bộ  hấp dẫn trong thơ ca và truyện của mình. Tố Hữu, Nguyễn Khoa Điềm,  Thanh Hải,… cũng có một giọng điệu riêng “rất Huế”, dễ thương dịu ngọt.  Hai tiếng “mai này” là cách nói của bà con xứ Huế.
    
    Thế hệ con cháu mai sau sẽ tiếp bước cha ông “Gánh vác phần người đi  trước để lại” xây dựng đất nước ta “Vạn cổ thử giang sơn” (Trần Quang  Khải), “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” (Hồ Chí Minh). Hai chữ “lớn lên”  biểu lộ một niềm tin về trí tuệ và bản lĩnh nhân dân trên hành trình  lịch sử đi tới ngày mai tươi sáng. “Mơ mộng” nghĩa là rất đẹp, ngoài trí  tưởng tượng về một Việt Nam cường thịnh, một cường quốc văn minh. Điều  mà “anh và em”, mỗi người chúng ta mơ mộng hôm nay, sẽ biến thành hiện  thực “mai này” gần. 
    
    Bốn câu thơ cuối đoạn cảm xúc dâng lên thành cao trào. Giọng thơ trở  nên ngọt ngào, say đắm khi nhà thơ nói lên những suy nghĩ sâu sắc, đẹp  đẽ của mình:
    
    
“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
    
    Phải biết gắn bó và san sẻ
    
    Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
    
    Làm nên Đất Nước muôn đời…”
    
    “Em ơi em” - một tiếng gọi yêu thương, giãi bày và san sẻ bao niềm vui  sướng đang dâng lên trong lòng khi nhà thơ cảm nhận và định nghĩa về Đất  Nước: “Đất Nước là máu xương của mình”. Đất nước là huyết hệ, là thân  thể ruột thịt thân yêu của mình, và mồ hôi xương máu của tổ tiên, ông  cha của dân tộc ngàn đời. Vì “Đất Nước là máu xương của mình” nên Trần  Vàng Sao đã viết:
    
    
“Nuôi lớn người từ ngày mở đất,
    
    Bốn ngàn năm nằm gai nếm mật
    
    Một tấc lòng cũng đẫy hồn Thánh Gióng”.
    
    (“Bài thơ của một người yêu nước mình” 19/12/1967)
    
    Với Nguyễn Khoa Điềm thì “gắn bó”, “san sẻ”, “hóa thân” là những biểu  hiện của tình yêu nước, là ý thức, là nghĩa vụ cao cả và thiêng liêng.  “Phải biết gắn bó và san sẻ… phải biết hóa thân…” thì mới có thể “Làm  nên Đất Nước muôn đời”. Điệp ngữ “phải biết” như một mệnh lệnh phát ra  từ con tim, làm cho giọng thơ mạnh mẽ, chấn động. Có biết trường ca “Mặt  đường khát vọng” ra đời tại một nơi nóng bỏng, ác liệt nhất của thời  chiến tranh chống Mỹ thì mới cảm nhận được các từ ngữ: “gắn bó”, “san  sẻ”, “hóa thân” là tiếng nói tâm huyết “mang sức mạnh ý chí và khát vọng  vượt ra ngoài giới hạn thông tin của ngôn từ” như một nhà ngôn ngữ học  lừng danh đã nói.
    
    Trong thơ ca Việt Nam thời kháng chiến, đề tài quê hương đất nước được  tô đậm bằng nhiều bài thơ kiệt tác, những đoạn thơ hay, những câu thơ  tuyệt cú. Cảm hứng về đất nước được diễn tả bằng nhiều tứ thơ độc đáo,  mang phong cách sáng tạo riêng của mỗi nhà thơ. Chất trữ tình thấm đẫm  dư ba. Đất nước trong máu lửa mới mang cảm xúc sâu nặng thế. Đây là  tiếng nói ở hai đầu đất nước:
    
    
“Tôi yêu đất nước này chân thật
    
    Như yêu căn nhà nhỏ có mẹ của tôi
    
    Như yêu em nụ hôn ngọt trên môi
    
    Và yêu tôi đã biết làm người
    
    Cứ trông đất nước mình thống nhất”
    
    (Trần Vàng Sao)
    
    
“Ôi! Tổ quốc ta, ta yêu như máu thịt
    
    Như mẹ cha ta như vợ như chồng
    
    Ôi Tổ quốc, nếu cần ta chết
    
    Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông”.
    
    (Chế Lan Viên)
    
    Trở lại đoạn thơ trên đây của Nguyễn Khoa Điềm. Tứ thơ rất đẹp. Đất  nước thân thương gắn bó với mọi người. Phải biết hiến dâng cho “Đất nước  muôn đời”. Đoạn thơ đẹp còn vì sáng ngời niềm tin về tương lai Đất nước  và tiền đồ tươi sáng của dân tộc. Đoạn thơ mang tính chính luận, chất  trữ tình hàm ẩn tính công dân của thời đại mới. Giọng thơ tâm tình, dịu  ngọt, tứ thơ dạt dào cảm xúc, sáng tạo về ngôn từ, hình ảnh, thể hiện  một hồn thơ giàu chất suy tư, khẳng định một thi pháp độc đáo, có nhiều  mới mẻ tìm tòi.
    
    “Em ơi em, Đất Nước là máu xương của mình…” - một tứ thơ rất đẹp! Một  tứ thơ lung linh mang vẻ đẹp trí tuệ! Lúc hòa bình phải biết đem “trí  lực” để xây dựng Đất Nước, “làm nên Đất Nước muôn đời”, Đất nước “to đẹp  hơn đàng hoàng hơn”. Lúc có chiến tranh phải đem xương máu để bảo toàn  Sông núi. “Gắn bó, san sẻ, hóa thân” cho Đất Nước, ấy là nghĩa vụ cao cả  thiêng liêng, ấy là tình yêu Đất Nước của “anh và em” hôm nay, của thế  hệ Việt Nam “Mai này con ta lớn lên”…