Tình yêu nam nữ với những cung bậc, sắc thái hết sức đa dạng, phức tạp    là một trong những nội dung cơ bản của ca dao người Việt. Đi vào thế    giới ca dao, những cung bậc, sắc thái tình cảm vốn vô hình, vô sắc ấy    bỗng trở nên hết sức cụ thể sinh động. Tất cả là nhờ cái tình chân    thành, chân chất, đằm thắm với lối diễn đạt độc đáo của tác giả dân    gian. Ví như bài ca dao "Khăn thương nhớ ai" – thi phẩm được xếp vào    hàng “bậc nhất chi nhường cho ai”.
Không phải ngẫu nhiên mà bài ca dao này thường được người ta nhớ đến với    cái tên "Khăn thương nhớ ai". Hình ảnh chiếc khăn không chỉ là biểu    tượng khởi đầu cho nỗi thương nhớ của cô gái mà nó còn là hình ảnh được    lặp lại nhiều nhất với nhiều tình huống khác nhau.
Khăn thương nhớ ai?
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai
Khăn thương nhớ ai?
Khăn chùi nước mắt
Dễ hiểu vì sao hình ảnh chiếc khăn lại trở đi trở lại nhiều lần như một    điệp khúc nhớ thương triền miên, da diết như thế. Trong tình yêu trai    gái, chiếc khăn thường là vật trao duyên để người ta "gửi khăn, gửi  áo,   gửi lời". Khăn cũng là một vật luôn gần gũi, quấn quýt với người  con   gái. Ở đây chiếc khăn được nhân hoá, trở nên có tâm trạng và là  đối   tượng để cô gái bộc lộ nỗi niềm thương nhớ người yêu. Ba lần hỏi,  mỗi   lần nỗi nhớ lại càng trào dâng, ngổn ngang trăm mối, trăm chiều,  bao   trùm khắp cả không gian : rơi xuống đất, vắt lên vai và cao độ là  khi   chiếc khăn giúp cô gái dấu đi những giọt nước mắt khóc thầm. Sáu  dòng   thơ với đa số thanh bằng gợi nỗi bâng khuâng da diết đậm màu sắc  nữ   tính, đầy kín đáo của nỗi nhớ thương.
Hình ảnh tiếp theo trở thành biểu tượng cho nỗi nhớ là ngọn đèn:
Đèn thương nhớ ai
Mà đèn không tắt
Cũng vẫn dùng thủ pháp nhân hoá nhưng nếu như ở hình ảnh chiếc khăn, nỗi    nhớ được trải ra theo không gian thì đến đây nó được đo theo thời   gian.  Hình ảnh ngọn đèn không tắt chính là ngọn lửa thương nhớ đang   cháy  trong trái tim người con gái. Chính là người con gái đang trằn   trọc đêm  thâu trong nhớ thương đằng đẳng. Sau này nhà thơ Chính Hữu   cũng đã học  tập nghệ thuật này của ca dao để làm nên trong thơ mình một   "Ngọn đèn  đứng gác" đáng nhớ.
Hình ảnh cuối cùng trở thành biểu tượng cho tâm trạng cô gái là đôi mắt -    cửa sổ của tâm hồn. Dù rằng những câu hỏi với chiếc khăn, ngọn đèn    chính là sự phân thân trong tâm trạng cô gái nhưng đó vẫn chỉ là cách    nói gián tiếp. Mà nỗi nhớ thì cứ da diết, bồn chồn và đến lúc không thể    kìm nén, che giấu. Cô gái đã hỏi mình, trực tiếp bộc lộ nỗi lòng:
Mắt thương nhớ ai
Mắt ngủ không yên
Hình ảnh đôi mắt không ngủ ấy là sự phát triển tất yếu từ chiếc khăn    không ở yên, từ ngọn đèn chong chong đêm dài. Đó là một hình tượng hợp    lí, nhất quán và tự nhiên như chính nỗi nhớ niềm thương đang dâng trào    trong cô gái.
Chỉ trong 10 câu thơ 4 chữ, nỗi nhớ thương của cô gái được bộc lộ thật    độc đáo. Có đến năm lần cái điệp khúc “thương nhớ ai” được lặp đi lặp    lại và gắn với những hình ảnh khác nhau. Nhưng tựu trung lại tất cả đều    là sự tự hỏi lòng mình và hơn thế nữa là sự tự khẳng định tình cảm  của   cô gái một cách mạnh mẽ. Tâm trạng đầy yêu thương của cô gái không  chỉ   được cụ thể hoá, hình tượng hoá một cách thật rõ nét mà cách bộc  lộ  cũng  đầy tế nhị, kín đáo rất phù hợp với người Việt Nam.
Nét độc đáo trong nghệ thuật của bài ca dao còn biểu hiện ở kết cấu hai    phần : 10 câu đầu theo thể vãn bốn và một câu lục - bát kết lại cả  bài.   Nếu như ở phần đầu là sự dồn nén của tình cảm thì đến hai câu kết  tâm   trạng lo âu tràn ra ngổn ngang :
Đêm qua em những lo phiền
Lo vì một nỗi không yên một bề …
Người con gái đang yêu nào lại không mang trong lòng bên cạnh nỗi niềm    thương nhớ là nỗi bồn chồn, lo lắng cho tương lai, hạnh phúc lứa đôi.    Đặc biệt trong hoàn cảnh xã hội cũ thì điều lo âu đó hoàn toàn có lý  do.   Mối tình tha thiết, mãnh liệt ấy đâu đã là sự đảm bảo cho một cuộc  hôn   nhân hạnh phúc lâu bền. Bất trắc luôn luôn rình rập những tình  cảm tốt   đẹp của những con người bình dân, bình thường. Thân phận nhỏ  bé, tình   yêu nhỏ nhoi giữa bao nhiêu là giăng mắc bất tường. Dấu ba  chấm kết lại   bài thơ đầy sức gợi mở và càng cho thấy nỗi lo nhiều bề  trong tâm  trạng  cô gái. Quả là ngổn ngang trăm mối tơ vò.
Đây có thể nói là một trong những bài đặc sắc nhất của ca dao Việt Nam.    Bằng nghệ thuật nhân hoá, hoán dụ với những biểu tượng độc đáo, bài ca    dao đã thể hiện được những sắc thái vô cùng tinh tế trong nỗi lòng   người  con gái đang yêu. Chính điều đó đã tạo nên sức hấp dẫn mạnh mẽ   cũng như  sức sống trường tồn cho tác phẩm.