Thuyết minh về một tác giả văn học Xuân Diệu
			 
			 
			
		
		
 
 
 
 
 
 
Xuân Diệu là một tác gia lớn của nền văn học Việt Nam, một nhà thơ xuất  sắc có đóng góp lớn vào quá trình hiện đại hóa thơ ca Việt Nam. Ông là  con người toàn tâm, toàn trí, toàn hồn, nhiệt thành cống hiến sự sống  cho thơ ca, chạy đua với thời gian để giành giật lấy từng phút giây của  cuộc đời. 
 
Nói đến Xuân Diệu (1916-1985), trước hết phải nói đến cuộc đời của nhà  thơ. Xuân Diệu là bút danh, tên thật là Ngô Xuân Diệu. Cha ông là Ngô  Xuân Thọ, vốn quê ở xã Trảo Nha, nay là thị trấn Nghèn, huyện Can Lộc,  tỉnh Hà Tĩnh, đỗ tú tài kép Hán học, vào Bình Định dạy học, lấy vợ là  Nguyễn Thị Hiệp, sinh ra Xuân Diệu tại Gò Bồi, huyện Tuy Phước, tỉnh  Bình Định. Xuân Diệu thuở nhỏ sống ở quê mẹ, đến năm mười tuổi sống với  cha. 
 
Xuân Diệu trải qua quá trình đào tạo quy củ. Thuở nhỏ học chữ Nho và chữ  Quốc ngữ với cha, sau đó học ở trường Bưởi (Hà Nội) và trường Khải Định  (Huế). 
 
Năm 1940, Xuân Diệu đỗ tham tá nha Thương chính vào làm ở ti Thương  chính Mỹ Tho (nay thuộc tỉnh Tiền Giang). Sau 4 năm làm công chức, ông  thôi việc, ra Hà Nội sống bằng nghề viết văn. Xuân Diệu là người thứ hai  sau Tản Đà, một con người dám sống hết mình với nghiệp văn chương cao  đẹp. 
 
Ngày 19 tháng 8 năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công, Xuân Diệu hăng  hái hoạt động văn nghệ phục vụ hai cuộc kháng chiến. Năm 1948, Xuân  Diệu được bầu làm ủy viên Ban Chấp hành Hội Văn nghệ Việt Nam. Sau đó,  ông là ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam các khóa 1, 2, 3  (1957-1985). Ông được Viện Hàn lâm nghệ thuật nước Cộng hòa dân chủ Đức  bầu làm Viện sĩ thông tấn (1983). 
 
Xuân Diệu đã được Nhà nước tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt I - năm 1996). 
Sự thành công của Xuân Diệu được quyết định bởi nhiều yếu tố nhưng không  thể không kể đến ảnh hưởng to lớn của con người nhà thơ đối với sự  nghiệp văn học của ông. 
 
Xuân Diệu là một con người có tinh thần lao động nghệ thuật đầy đam mê  và bền bỉ ngay từ thuở nhỏ "cha đàng ngoài, mẹ ở đàng trong - Ông đồ  Nghệ đeo khăn gói đỏ". Xuân Diệu trước hết học được ở cha - ông đồ Nghệ  đức tính cần cù, kiên nhẫn trong học tập, rèn luyện tài năng và lao động  nghệ thuật. ở Xuân Diệu, học tập, rèn luyện và lao động sáng tạo vừa là  một quyết tâm khắc khổ, vừa là một lẽ sống, một niềm say mê lớn. 
 
Thế Lữ đã từng nhận xét về Xuân Diệu: "Một tâm hồn đằm thắm và rất dễ  cảm xúc". Sinh ra và lớn lên ở quê mẹ, sống giữa thiên nhiên phóng  khoáng với những ngọn gió nồm và những con sóng biển đã tác động đến hồn  thơ nồng nàn, sôi nổi của ông. Phải sống trong hoàn cảnh éo le, ông là  con vợ lẽ, phải xa mẹ từ nhỏ và thường bị hắt hủi. Vì thế, thơ ông luôn  thể hiện tâm hồn khao khát tri âm, khao khát giao cảm với đời một cách  mãnh liệt và da diết. Đúng như ý kiến của một nhà phê bình đã đánh giá:  "Xuân Diệu là nhà thơ của niềm khát khao giao cảm với đời". 
 
Về quá trình đào tạo: Một mặt, ông tiếp thu, học hỏi văn hóa phương Đông  từ người cha là một nhà nho, tìm về vốn tri thức cổ, văn hóa truyền  thống một cách tích cực. Mặt khác, Xuân Diệu là một trí thức Tây học, đã  hấp thụ ảnh hưởng của văn hóa phương Tây, đặc biệt là Pháp và các nhà  văn thuộc trường phái tượng trưng một cách có hệ thống. Vì thế có thể  tìm thấy ở nhà thơ sự kết hợp hai yếu tố cổ điển và hiện đại, Đông và  Tây trong tư tưởng và tình cảm thẩm mỹ. Trong đó yếu tố Tây học, hiện  tại ảnh hưởng sâu đậm hơn. 
 
Xuân Diệu là một tài năng nhiều mặt: làm thơ, viết văn, nghiên cứu phê  bình văn học, dịch thuật. Đặc biệt, ông nổi tiếng là một nhà thơ xuất  sắc với mười lăm tập thơ. Đối với Xuân Diệu, làm thơ, văn không chỉ để  khẳng định tài năng mà còn là một cách giao cảm với đời, khẳng định sự  hiện hữu của mình trong cuộc đời. 
 
Lao động nghệ thuật suốt hơn một nửa thế kỷ, Xuân Diệu đã để lại cho đời  một sự nghiệp văn học xuất sắc. Là một con người tài năng nhiều mặt, ở  lĩnh vực nào Xuân Diệu cũng có những đóng góp lớn nhưng nói đến Xuân  Diệu trước hết phải nói đến một nhà thơ, một cây đại thụ của thơ ca hiện  đại Việt Nam. Sự nghiệp sáng tác thơ của Xuân Diệu có thể chia làm hai  giai đoạn: Trước và sau Cách mạng tháng Tám 1945. 
 
Trước Cách mạng tháng Tám 1945, Xuân Diệu được xem là nhà thơ lãng mạn  tiêu biểu của phong trào. Thơ mới với hai tập thơ xuất sắc Thơ thơ  (1938) và Gửi hương cho gió (1945). Xuân Diệu đã đem đến Thơ mới nguồn  cảm hứng mới lạ của một hồn thơ sôi nổi, thiết tha yêu đời, thể hiện  niềm khát khao giao cảm tận độ với cuộc đời bằng một cái tôi cá thể ý  thức thật rõ giá trị của bản thân trước thế giới. 
 
Nhà thơ bộc lộ niềm khát khao giao cảm nồng cháy, cuồng say trước cuộc  đời, bắt nguồn từ quan niệm sống tích cực của cái tôi cá nhân cá thể ý  thức sự hiện hữu của bản thân trong cuộc đời và khát khao sống cháy  sáng. 
 
Xuân Diệu không muốn hòa lẫn cái tôi của mình vào biển đời mờ mờ nhân  ảnh mà khẳng định mình là đỉnh Hi Mã Lạp sơn, "là một, là riêng, là thứ  nhất": 
Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt 
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm 
Trong khi các nhà thơ mới khác đối lập cái tôi của mình với cuộc đời như  tìm đến chốn bồng lai tiên cảnh như Thế Lữ, tìm về chốn quê như Đoàn  Văn Cừ thì Xuân Diệu hòa lẫn cái tôi của mình vào cuộc đời trần thế, yêu  đời tận tưởng đắm say cuộc đời. 
 
Xuân Diệu là nhà thơ của mùa xuân, tình yêu và tuổi trẻ. Thơ Xuân Diệu  luôn thể hiện lòng yêu đời, ham sống đến cuồng nhiệt, niềm khát khao  chiếm lĩnh và hưởng thụ những giá trị tươi đẹp của cuộc sống. Cái tôi  Xuân Diệu được giải phóng khỏi ước lệ phi ngã cổ điển, nhìn đời bằng cái  nhìn xanh non, biếc trời, đầy trẻ trung. Thiên nhiên và con người mang  sức trẻ tình tứ sâu sắc, một thế giới xuân đời ngồn ngột hương sắc, tinh  vi huyền diệu: 
Của ong bướm này đây tuần tháng mật 
Này đây hoa của đồng nội xanh rì 
Này đây lá của cành tơ phơ phất 
Của yến anh này đây khúc tình si. 
(Vội vàng) 
 
Thơ ca trung đại, tình gắn với nghĩa. Một số nhà thơ như Nguyễn Du, Hồ  Xuân Hương nói được tình yêu cả về tinh thần và thể xác nhưng chỉ đến  Xuân Diệu, khát vọng về tình yêu mới được thể hiện thành thục và mãnh  liệt nhất, đem đến đương thời những ý tưởng mới mẻ và táo bạo. 
 
Trong thơ Xuân Diệu, cảm thức thời gian được bắt nguồn từ quan điểm nhân  sinh mới mẻ. Xuân Diệu với tâm hồn nhạy bén ý thức được sự chảy trôi  của thời gian một đi không trở lại nên luôn mang trong mình nỗi ám ảnh,  lo sợ. Nhà thơ muốn chạy đua với thời gian để giành giật sự sống, tận  hưởng từng phút giây của cuộc đời, thể hiện niềm ham sống lành mạnh. 
 
Bên cạnh niềm yêu say cuộc đời, thơ Xuân Diệu cũng thể hiện nỗi buồn  chán, hoài nghi, cô đơn. Do Xuân Diệu là một nhà thơ, một nghệ sĩ theo  khuynh hướng lãng mạn, đòi hỏi cái hoàn mĩ, tự nuôi mình bằng những ảo  mộng cuộc đời, luôn thèm muốn giao cảm vô biên tuyệt đỉnh với cuộc đời,  nên khi gặp phải hoàn cảnh xã hội tầm thường giả dối, sống trong đất  nước mất chủ quyền, bản thân là người dân mất nước, chịu vòng nô lệ khao  khát dâng hiến nhưng gặp phải xã hội kim tiền, Xuân Diệu rơi vào chán  nản, hoài nghi, cô đơn, "buồn tịch mịch ngay trong cả những điều ấm nóng  tươi vui": 
Tôi là con nai bị chiều đánh lưới 
Không biết đi đâu giữa sầu bóng tối. 
 
Yêu đời, thiết tha với cuộc sống nhưng mang trong mình nỗi chán nản,  hoài nghi, cô đơn. Hai trạng thái cảm xúc này tưởng như đối lập nhưng  lại rất thống nhất của một hồn thơ khát khao giao cảm mãnh liệt với cuộc  đời, của một cái tôi có thể ý thức đầy đủ về sự hiện hữu và giá trị của  bản thân trước thế giới. 
 
Thơ Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám 1945 cũng thể hiện sự cách tân  về nghệ thuật đầy mới mẻ và táo bạo Xuân Diệu đem đến nguồn thi tứ mới  mẻ: Thơ xưa khi viết về nỗi cô đơn thường tạo ra không gian trống trải,  thiếu vắng con người, còn đối với Xuân Diệu, ngay cả khi con người và  cảnh vật ở bên mình, nhà thơ vẫn cảm thấy cô đơn: 
Dù tin tưởng chung một đời một một 
Em là em, anh vẫn cứ là anh 
(Xa cách) 
Tình yêu trong thơ Xuân Diệu không diễn tả bóng gió, ước lệ như thơ xưa  mà hiện lên với ý nghĩa đầy đủ nhất, trọn vẹn nhất, là sự hòa hợp về  linh hồn và thể xác. 
Hình ảnh thơ mới mẻ, táo bạo, mang đậm cảm giác phồn thực: 
Trăng ác mộng đã muôn đời thi sĩ 
Giơ hai tay mơn trớn vẻ tràn đầy. 
Thơ Xuân Diệu với những hình ảnh đầy rẫy tính cảm giác, được cảm nhận bằng tất cả các giác quan: 
Con gió xinh thì thào trong lá biếc 
hay: 
Hương hiu hiu, nên gió cũng ngọt ngào 
Từ ngữ sử dụng mới lạ, táo bạo, rất Tây: 
Hơn một loài hoa đã rụng cành 
hay: 
Lòng anh thôi đã cưới lòng em 
Cách ngắt nhịp mới, lạ (4 / 2 / 1): 
Đàn ghê như nước lạnh trời ơi 
Câu thơ của Xuân Diệu mang đậm yếu tố khẩu ngữ, có tính chất đối thoại, mang màu sắc luân lí: 
Yêu là chết ở trong lòng một ít 
Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu. 
Có nhiều khó từ, câu hỏi, cảm thán. Giọng điệu sôi nổi, cuồng nhiệt, đắm say. 
 
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, Xuân Diệu trở thành nhà thơ cách mạng, hòa  mình vào cuộc sống mới, nhiệt thành phục vụ cách mạng. Thơ nở rộ với  nhiều tập thơ lớn: Riêng chung (1960), Mũi Cà Mau - Cầm tay (1962), Một  khối hồng (1964), Tôi giàu đôi mắt (1970), Thanh ca (1982). 
 
Nếu trước đây, Xuân Diệu mang trong mình nỗi cô đơn hoài nghi trước cuộc  đời thì sau cách mạng, nhà thơ đã nhanh chóng hòa nhập, tìm được sự tri  âm. Cảm hứng thơ vì thế tươi vui và ấm áp. 
Trước lệ sa ta oán hận đất trời 
Nay lệ hòa ta lại thấy đời vui 
Tình yêu có sự chung thủy, sum vầy, yêu thương, ấm áp. 
Đề tài phong phú hơn, mở rộng hơn. Ngòi bút hướng đến Đảng, nhân dân, cuộc sống lao động mới. 
 
Cảm hứng mới, đề tài mới, nội dung mới đòi hỏi cách thể hiện mới. Ngòi  bút của Xuân Diệu không thể đi theo lối cũ đường quen. Xuân Diệu học tập  lời ăn tiếng nói của nhân dân, ngôn ngữ giản dị, gần với đời sống, tuy  có lúc còn vụng về, dễ dãi. 
Anh không xứng là biển xanh 
Nhưng anh muốn em là bờ cát trắng. 
Giọng điệu thơ phong phú, không chỉ đơn thuần là giọng trữ tình mà còn  mang giọng trầm hùng cổ kính của sử ca như trong tróng ca Ngọn quốc kỳ  hay mang hơi thở triết lý như trong Lệ: 
 
Máu của linh hồn là nước mắt 
Còn rơi biết đến thuở nào thôi 
Giọng đối đáp giao duyên như trong bài Hỏi: 
Ai làm cách trở đôi ta 
Vì anh vụng ngượng hay là vì em? 
Trăng còn đợi gió chưa lên 
Hay là trăng đã tròn trên mái rồi? 
Ta còn gặp ở thơ Xuân Diệu sau Cách mạng giọng thơ chính luận, tự sự trữ tình, trào phúng đả kích. 
 
Bên cạnh sáng tác thơ, Xuân Diệu còn viết văn xuôi, nghiên cứu phê bình  văn học và dịch thuật. Phấn thông vàng (1939) và Trường ca (1945) là hai  tập văn xuôi đặc sắc của ông. Xuân Diệu còn để lại những tập tiểu luận,  phê bình có giá trị: Tiếng thơ, Phê bình giới thiệu thơ, Dao có mài mới  sắc... 
 
Xuân Diệu là nhà thơ lớn trong văn học hiện đại, nhà thơ lớn của dân  tộc. Bài học Xuân Diệu để lại cho đời là tinh thần lao động nghệ thuật  cần cù, là niềm tin yêu tha thiết đối với con người, là ý thức chân  thành đối với văn chương. Dù đã qua hơn nửa thế kỷ nhưng thơ Xuân Diệu  vẫn đầy sức hấp dẫn và lôi cuốn các thế hệ độc giả. 
 
 |  
  
 
		
		
		
 
  
 | 
 |   
 
    BÁO LỖI BÀI VIẾT
 Hãy gửi cốc trà đá cho TTB tài khoản ngân hàng phía dưới hoặc paypal : 
    paypalme/tuthienbao
 Giúp có kinh phí duy trì Free  
 
 
TÌM BÀI VIẾT KHÁC SEARCH TRÊN THANH TìM KIẾM PHÍA TRÊN WEB 
 
 
		
		
		
			
			
			
			
				 
			
			
			
			
			
			
			
				
			
			
			
		 
	
	 | 
 
 
 
 
	 
	
		
	
	
		
 
  	 	 
 
	
ADS
	
	
 
 
	
	
Miễn trừ trách nhiệm.NẾU CÓ ĐIỀU KIỆN HÃY MUA SÁCH ỦNG HỘ NHÀ XUẤT BẢN 
© Tuthienbao.com- TTB chúng tôi không cung cấp chức năng đăng ký thành viên để viết bài hay bình luận - Nếu có khiếu nại chung tôi sẽ xử lý.Mọi dữ liệu về diễn đàn trên website này đều được chúng tôi và các thành viên tham gia website tổng hợp từ  tất cả các trang website .Do đó, chúng tôi không chịu trách nhiệm về những dữ liệu được chia sẻ tại đây.Truyện Nội Dung được chia sẻ chỉ với mục đích giải trí, phi lợi nhuận. Mọi bản quyền thuộc về tác giả và nhà xuất bản gốc.Nếu có yêu cầu gỡ bỏ, xin liên hệ qua email
  
truyen tranh,
truyen tranh 8,truyen tranh hay,
truyen tranh online,
ebook,ebook ngon tinh,
van hoc lop 5,van hoc lop 6,van hoc lop 7,van hoc lop 8,van hoc lop 9,van hoc lop 10,van hoc lop 11,van hoc lop 12,
 
     |