Tìm kiếm chủ đề bài viết ở đây trước khi hỏi TTB -Tìm bằng tiếng việt có dấu càng chính xác-Ví Dụ:Đánh vào Hwang mi ri để tìm truyện tác giả này
 
Hãy ủng hộ mua bất kỳ sản phẩm trên shopee.vn truy cập Vào Đây tìm sản phẩm rồi mua, mỗi lượt mua đều giúp duy trì website hoạt động miễn phí
KHÔNG XEM ĐƯỢC ẢNH TRUY CẬP ĐỔI DNS CLICK VÀO ĐÂY 
 
   	  	 
 
 
		 
	 
 
  
	
	
		
	
	
	| 
		
		 
			
				12-09-2012, 11:22 AM
			
			
			
		 
	 | 
 
	
		
        
        
		
		        
 
                                |   	
                              
				
 				 Đầy Tớ Của Nhân Dân 
	
                 
 Facebook: https://www.facebook.com/tuthienbaocom 
		
 | 	
	
			
			 | 
	
			
	
                              
					  
					
					
					
				
			 | 
		  |  
		 
		
	 | 
 
	
	
		
	
		
		
			
			
				 
				Phân tích "Cảm xúc mùa thu" của Đỗ Phủ
			 
			 
			
		
		
 
 
 
 
 
 
1. Tác giả 
 
Đỗ Phủ (712 770) là nhà thơ lớn, không chỉ của đời Đường, mà cả của  lịch sử thơ ca Trung Quốc. Đỗ Phủ làm thơ từ lúc 7 tuổi, lúc nhà Đường  còn phồn vinh, nhưng tài năng của ông nở rộ vào giai đoạn sau sự biến An  Lộc Sơn – Sử Tư Minh (755 763), lúc đất nước Trung Quốc chìm ngập  liên miên trong cảnh loạn li. Và khi ấy Đỗ Phủ cùng gia đình cũng phải  chạy loạn nhiều nơi. Phản ánh hiện thực và bày tỏ thái độ, tâm trạng  trước hiện thực khốn khổ của nhân dân, của nạn chiến tranh, nạn đói là  nội dung cơ bản của thơ ca Đỗ Phủ. Ông đặc biệt thành công ở mảng thơ  biểu hiện tâm trạng khác nhau khi sống trong cảnh tha phương cầu thực vì  loạn li – trong đó nổi tiếng nhất là chùm thơ "Thu hứng" gồm tám bài  thất ngôn bát cú Đường luật. 
 
2. Tác phẩm 
 
Cảm xúc mùa thu (Thu hứng 1) là bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ trữ  tình của Đỗ Phủ. Là một bài thơ tả cảnh và tả tình, bài thơ có kết cấu  khá quen thuộc : bốn câu đầu thiên về tả cảnh, bốn câu sau thiên về tả  tình. Phong cảnh mùa thu mang những nét đặc trưng của thiên nhiên Trung  Quốc. Cảnh vật được nhìn qua tâm trạng của một người đang phải tha  phương cầu thực, nhớ quê hương nhưng không thể trở về nên hiu hắt và rất  buồn. Bức tranh phong cảnh có đủ màu sắc, hình khối, đường nét và âm  thanh, tất cả tạo nên sức gợi cho bài thơ. Đây là một bài thơ điển hình  cho thể thơ luật Đường và cho phong cách thơ trữ tình hiện thực Đỗ Phủ. 
 
3. Đọc hiểu 
 
Đỗ Phủ và Lí Bạch là hai đỉnh cao chói lọi của thơ Đường, tạo nên hai  khuynh hướng trong Đường thi. Lí Bạch mang phong cách lãng mạn, một  người lãng mạn cuồng phóng ; Đỗ Phủ mang phong cách hiện thực, một hiện  thực sâu sắc. Cuộc đời của Đỗ Phủ gắn liền với điều kiện xã hội đầy biến  động của đất nước Trung Hoa thời loạn An Lộc Sơn  Sử Tư Minh. Chứng  kiến cảnh đất nước loạn li và là nạn nhân của xã hội thời loạn nên văn  thơ của "Thi thánh" Đỗ Phủ chứa đựng chất liệu hiện thực rất phong phú.  Thơ ông được coi là "thi sử" với nghệ thuật điêu luyện và khả năng  truyền tải nội dung tư tưởng thời đại rất diệu kì. Xuất thân trong gia  đình Nho học, mấy đời làm quan, ông nội là nhà thơ Đỗ Thẩm Ngôn nổi  tiếng thời Sơ Thịnh Đường, Đỗ Phủ mang trong mình lí tưởng của người  quân tử, muốn tiến thân bằng con đường khoa cử, cứu nước giúp đời. Nhưng  triều đình phong kiến thối nát, vua tôi ăn chơi sa đoạ thời ấy đã làm  lí tưởng của ông đổ vỡ. Ông bị đẩy xuống tận đáy xã hội và phải chết đói  trên con thuyền lẻ loi nơi đất khách quê người. Qua thơ Đỗ Phủ, xã hội  đời Đường ở hai giai đoạn trước và sau loạn An Lộc Sơn hiện lên rất đậm  nét. Mang tâm trạng đau đời của một con người có trách nhiệm với dân  tộc, với đất nước nên thơ ca Đỗ Phủ là những vần thơ thấm nỗi buồn và  đẫm nước mắt. Chùm thơ "Thu hứng" thể hiện rất rõ nỗi đau đời ấy của thi  nhân. "Thu hứng" được sáng tác năm 766, bốn năm trước khi nhà thơ qua  đời. Đây là giai đoạn nhà thơ đang cùng gia đình chạy loạn trong cảnh  đói rét và bần hàn, cũng là thời kì chín muồi tài năng của ông. 
 
Một bài thất ngôn bát cú Đường thi thường có cấu trúc bốn phần là đề,  thực, luận, kết và có những quy tắc riêng cho nội dung từng phần. Thế  nhưng cấu trúc ấy cũng có thể chia làm hai phần  phần vịnh cảnh và phần  tả tình  nhất là đối với những bài trữ tình phong cảnh. Nội dung của  bài Thu hứng cũng có thể phân chia theo kiểu cấu trúc thứ hai. Bốn câu  đầu tả cảnh, bốn câu sau bày tỏ tâm trạng của nhân vật trữ tình. Tất  nhiên cách phân chia này chỉ có ý nghĩa tương đối bởi trong thơ ca nói  chung và trong thơ Đường nói riêng, tình và cảnh không thể tách rời,  cảnh bao giờ cũng chứa tình và tình thì khó có thể bày tỏ nếu thiếu  cảnh. Trong Thu hứng, cảnh và tình hoà quyện tạo nên khả năng biểu đạt  tâm trạng cho bài thơ. Thơ Đường thường có những quy định rất chặt chẽ  về niêm luật, về thi liệu, về đề tài. Hình ảnh và ngôn từ trong thơ  Đường, vì vậy, thường không phong phú. Các nhà thơ thường có thói quen  sử dụng một số hình ảnh và ngôn từ mang tính quy ước nhất định. Nhưng  chính những yêu cầu ngặt nghèo về thi pháp ấy lại kích thích khả năng sử  dụng ngôn ngữ của các nhà thơ cổ điển. Với những hình ảnh và vốn từ ngữ  không nhiều ấy họ đã tinh luyện ngôn từ tạo cho ngôn ngữ thơ khả năng  cô đọng, hàm súc ở mức tối đa. Cảnh mùa thu là đề tài quá quen thuộc của  mọi loại hình nghệ thuật. Thiên nhiên mùa thu dường như đã mang sẵn  trong nó phẩm chất tượng trưng nghệ thuật. Mọi loại hình nghệ thuật đều  đã có những kiệt tác về đề tài mùa thu. Và trong văn học, nghệ thuật của  ngôn từ, thì đề tài mùa thu đã có rất nhiều kiệt tác. Trong thơ ca  phương Đông, cảnh mùa thu xuất hiện rất thường xuyên. Vì vậy, xét về đề  tài, về hình ảnh thơ thì Thu hứng của Đỗ Phủ không có gì mới lạ. Cái mới  lạ thể hiện sự sáng tạo của nhà thơ và cũng là thành công của bài thơ  chính là ở nghệ thuật miêu tả, sử dụng sáng tạo niêm luật thơ và nhất là  hình tượng của nhân vật trữ tình trong bài thơ. Bốn câu thơ đầu tả cảnh  mùa thu với những hình ảnh rất quen thuộc, đó là rừng phong, là khí  trời u ám, mặt nước mờ sương : 
 
Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm, 
Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm. 
Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng, 
Tái thượng phong vân tiếp địa âm. 
(Lác đác rừng phong hạt móc sa, 
Ngàn non hiu hắt, khí thu loà. 
Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm, 
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.) 
 
Bốn câu thơ tả cảnh thu vừa có chất nhạc vừa có chất hoạ. Đủ cả sắc màu,  đường nét và âm thanh. Nhưng sắc màu không sáng, thanh âm không vui.  Đường nét, hình ảnh của bức tranh thì rất hùng vĩ, mở ra một khung cảnh  thiên nhiên với đủ núi rừng, sông nước, bầu trời và cửa ải. Một không  gian rộng nhưng có giới hạn chứ không vô tận. Đó là một không gian u ám  của một buổi sáng mùa thu không có ánh bình minh. Không khí u ám được  gợi lên ở những từ ngữ "điêu thương", "khí tiêu sâm", "tiếp địa âm". Nó  gợi cảm giác u ám và lạnh lẽo. Nhạc tính được thể hiện ở nghệ thuật bố  trí thanh bằng trắc và cách gieo vần. Bốn câu thơ này có tới ba câu gieo  vần bằng, đồng thời lại sử dụng rất nhiều thanh bằng (17/28 thanh  bằng), tạo nên cảm giác mênh mang của tâm trạng trữ tình. Xét về nội  dung, đây là bốn câu thơ tả thực cảnh mùa thu với những nét thu rất đặc  trưng của thiên nhiên Trung Quốc. Tính chất cổ điển của Đường thi thể  hiện ở bốn câu thơ này. Có thể hình dung một người hoạ sĩ đứng ngắm mùa  thu và cất bút vẽ, bắt đầu nhìn từ cảnh gần, từ rừng phong rồi đến dòng  sông, xa hơn nữa là dãy núi và cuối cùng tầm nhìn bị cản trở bởi cửa ải  xa đầy sương mù. Cảnh thực mùa thu Trung Quốc thường buồn lạnh như vậy,  nhưng cái khí u ám của bức tranh sơn thuỷ hùng vĩ này còn được tạo nên  bởi tâm tư người dựng cảnh. Chủ thể sáng tạo bức tranh chắc phải mang  tâm trạng rất u sầu thì mới thể hiện thần thái u buồn ấy của bức tranh.  Cảnh và tình có sự giao hoà tạo nên một bức tranh thiên nhiên đầy tâm  sự. Không gian nghệ thuật bài thơ có đủ chiều cao, chiều rộng nhưng  không thoáng mà rất nặng nề. Bởi không gian và cảnh sắc mùa thu ấy được  nhìn dưới con mắt của một con người đang phải sống tha hương trong cảnh  khốn khó, phải chứng kiến dân tộc đang trong cảnh loạn li. Hướng về quê  hương trong nỗi nhớ da diết nhưng không thể trở về được càng làm cho tâm  trạng thêm u sầu. Ánh mắt hướng về nơi quê nhà ấy bị cản trở bởi cửa ải  mây mù. 
 
Tâm trạng đau buồn của người tha hương thời loạn được bộc lộ trực tiếp hơn ở phần hai, phần tả tình của bài thơ : 
 
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ, 
Cô chu nhất hệ cố viên tâm. 
Hàn y xứ xứ thôi đao xích, 
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm. 
(Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ, 
Con thuyền buộc chặt mối tình nhà. 
Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước, 
Thành Bạch, chày vang bóng ác tà.) 
 
Bốn câu thơ nói đến cảnh ngộ và tâm trạng của chủ thể trữ tình. Hai phần  của bài thơ có vẻ như độc lập về nội dung. Mạch cảm xúc có sự chuyển  hướng đột ngột, nhưng thực ra đây là bước phát triển tất yếu của tâm  trạng thơ. Cảnh buổi sáng mùa thu u ám gợi liên tưởng đến thực tại và  những ngày kế tiếp của cảnh chạy loạn. Chẳng có gì sáng sủa hơn cho  những ngày sắp tới. Nỗi nhớ quê hương trỗi dậy trong lòng người lữ thứ  khi thu sắp tàn và đông sắp tới. Tư tưởng nghệ thuật của bài thơ được  tập trung ở câu "Cô chu nhất hệ cố viên tâm". "Cô chu" là con thuyền đơn  độc trên sông. Đây là hình ảnh thơ vừa có ý nghĩa tả thực, vừa là một  biểu tượng nghệ thuật. Khi chạy loạn, cả gia đình Đỗ Phủ đã phải sống  trên một con thuyền thả trôi trên sông Trường Giang. Loạn lạc nên họ  không thể trở về quê hương được. Tấm lòng thương nhớ quê nhà đành buộc  chặt nơi con thuyền nhỏ ấy. Hình ảnh con thuyền còn mang một ý nghĩa  khái quát, nó đã trở thành một biểu tượng nghệ thuật của văn học, dùng  để chỉ thân phận lênh đênh của con người. Lí Bạch từng dùng hình ảnh "cô  phàm" để thể hiện tâm sự cô đơn, đồng thời thể hiện cảnh ngộ cô đơn và  đầy bất trắc của Mạnh Hạo Nhiên khi ông bước chân vào chốn quan trường.  Còn ở đây, "cô chu" thể hiện cảnh ngộ và tâm trạng của nhà thơ bất hạnh  Đỗ Phủ. Năm 765, Đỗ Phủ cùng gia đình rời Thành Đô đến Vân An rồi Quỳ  Châu. Vậy là trên thực tế, nhà thơ đã rời Thành Đô hai năm. Hai năm là  hai mùa hoa cúc nở, hai mùa thu xa quê hương. 
Người ta xa quê đi tha phương bởi nhiều nguyên nhân khác nhau. Còn với  chủ thể trữ tình ở bài thơ này thì lí do xa quê là chạy loạn. Đó là lí  do khắc nghiệt và đau thương nhất. Loạn li gây nên bao nỗi thương tâm  nên nhìn hoa cúc nở mà lòng đau tưởng hoa cúc cũng rơi lệ. Nguyễn Công  Trứ dịch câu thơ này là : 
 
Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ 
 
Câu thơ dịch không làm rõ được nghĩa của nguyên tắc. Theo phần dịch  nghĩa, có thể hiểu, người xa quê đã hai năm, nhưng dòng nước mắt nhớ quê  không phải chỉ rơi hai năm mà đã từng rơi trước đó nữa. Đó không chỉ là  dòng nước mắt của người chạy loạn mà còn là dòng nước mắt của nỗi đau  đời. Nỗi đau được khúc xạ qua một tâm hồn nhạy cảm. Bao nỗi đau chất  chứa trong lòng. Tâm trạng "cố viên tâm" còn tiếp tục được bày tỏ trong  bảy bài thơ còn lại của chùm Thu hứng. Bài Thu hứng có tính chất như là  "cương lĩnh sáng tác" của cả chùm thơ. Nỗi nhớ quê càng da diết hơn khi  người xa quê muốn trở về mà không được. Hai câu luận của bài thơ cùng  phát triển một ý thơ, là điểm sáng thẩm mĩ và cũng là tâm trạng của nhân  vật trữ tình trong bài thơ. Vì nỗi nhớ quê hương, nhớ cuộc sống thanh  bình nơi quê nhà xưa kia mà tâm trạng u uất, vì thế mà cảnh mùa thu vốn  đã buồn lại càng nhuốm màu li biệt. Một con thuyền lẻ loi cô độc trên  dòng Trường Giang dậy sóng là nơi trú ngụ của kẻ tha phương. Hướng về  phía quê hương nhưng phía trước là cửa ải mịt mù, là dòng sông cuộn  sóng, là loạn lạc binh đao. Một con thuyền nhỏ nhoi không đủ sức để vượt  qua những cản trở đó mà trở về quê hương. Nỗi nhớ nhân lên nhiều hơn  khi nghe tiếng chày đập áo, âm thanh quen thuộc và ấm áp của cuộc sống  thường nhật : 
 
Hàn y xứ xứ thôi đao xích 
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm. 
 
Những ngày cuối đời sống ở Quỳ Châu, Đỗ Phủ phải sống trong một hoàn  cảnh cực kì khó khăn. Đói rét hành hạ tấm thân, nỗi nhớ, nỗi đau, niềm u  uất dày vò trong lòng. Lang thang nay đây mai đó trên con thuyền nhỏ  rách nát lại càng thèm muốn một ngôi nhà ấm áp. Cuối thu người ta bắt  đầu chuẩn bị áo ấm cho một mùa đông dài giá buốt. Tiếng chày đập áo,  ngày thường thật giản dị, chẳng mấy ai để ý. Nhưng trong cảnh ngộ của  nhân vật trữ tình lúc này nó có tác động rất lớn. Nó là biểu tượng cho  một cuộc sống yên bình, điều mà nhà thơ đang khao khát. Sự đối lập giữa  cảnh thu hiu hắt lạnh lẽo với tiếng chày đập áo trên thành Bạch Đế gợi  nên sự đối lập của hai cuộc sống. Một tha phương đói rét, một ấm áp bình  yên càng làm tăng nỗi nhớ quê hương của người lữ khách. Tiếng chày đập  áo có sức gợi cảm rất lớn, nhất là trong mạch tâm trạng này của nhân vật  trữ tình. Tiếng chày đập áo trong bóng chiều tà thật buồn, nó càng làm  rõ thêm cảnh ngộ bi thương của người xa quê, nó đã tạo nên dư âm vang  vọng cho bài thơ. Bài thơ không chỉ là tâm trạng của một Đỗ Phủ trong  cảnh ngộ cụ thể. Bài thơ là tâm trạng của nhiều người, của nhiều thời  đại khi họ phải sống trong cảnh biệt li, nhất là biệt li trong loạn lạc.  Cảnh và tình đã có sự kết hợp rất chặt chẽ tạo nên vẻ đẹp nghệ thuật và  chiều sâu tư tưởng của bài thơ. Qua tâm trạng của nhân vật trữ tình,  bài thơ đã tố cáo mạnh mẽ những cuộc chiến tranh phi nghĩa, nguyên nhân  cơ bản đẩy con nguời đến những cảnh ngộ thương tâm. Bài thơ vừa là nỗi u  sầu của người nhớ quê, vừa là niềm khao khát một cuộc sống yên bình của  mỗi người dân. Ai đã từng sống trong chiến tranh, từng chịu cảnh loạn  li ắt hẳn sẽ có sự đồng cảm sâu sắc với tâm trạng của nhân vật trữ tình  trong bài thơ này. 
 
Phần lớn thơ của Đỗ Phủ là thơ luật. Thu hứng cũng nằm trong số đó. Về  cấu tứ và hình ảnh quả thực không có gì quá xa lạ. Đó đều là những thi  liệu vẫn được các nhà thơ đời Đường ưa thích sử dụng. Nhưng với tài năng  tinh luyện ngôn ngữ, sử dụng thanh bằng, trắc và tấm lòng tha thiết với  quê hương đất nước, nhà thơ đã sáng tạo nên một thi phẩm giàu xúc cảm,  vừa gợi cảm vừa giàu giá trị nhân văn. Bài thơ là một bức tranh tâm cảnh  được bắt đầu từ cảnh để biểu lộ tình. Nó mang vẻ đẹp cổ điển về ngôn  ngữ thi liệu, cấu tứ và nồng nàn hơi thở thời đại. 
 
*Liên hệ: 
 
Bài thơ Thu hứng 1 là bài thứ nhất  có tính chất cương lĩnh  trong  chùm thơ Thu hứng gồm tám bài thất ngôn bát cú Đường luật của Đỗ Phủ,  khi nhà thơ ở Quỳ Châu, lòng hướng về "vườn cũ" (cố viên). Đọc thêm Thu  hứng 4 để thấy vẫn mạch cảm xúc ấy, nhưng cụ thể, mãnh liệt hơn, hồi cố  những cảnh thăng bình của thủ đô Trường An những ngày còn thịnh trị. 
 
 |  
  
 
		
		
		
 
  
 | 
 |   
 
    BÁO LỖI BÀI VIẾT
 Hãy gửi cốc trà đá cho TTB tài khoản ngân hàng phía dưới hoặc paypal : 
    paypalme/tuthienbao
 Giúp có kinh phí duy trì Free  
 
 
TÌM BÀI VIẾT KHÁC SEARCH TRÊN THANH TìM KIẾM PHÍA TRÊN WEB 
 
 
		
		
		
			
			
			
			
				 
			
			
			
			
			
			
			
				
			
			
			
		 
	
	 | 
 
 
 
 
	 
	
		
	
	
		
 
  	 	 
 
	
ADS
	
	
 
 
	
	
Miễn trừ trách nhiệm.NẾU CÓ ĐIỀU KIỆN HÃY MUA SÁCH ỦNG HỘ NHÀ XUẤT BẢN 
© Tuthienbao.com- TTB chúng tôi không cung cấp chức năng đăng ký thành viên để viết bài hay bình luận - Nếu có khiếu nại chung tôi sẽ xử lý.Mọi dữ liệu về diễn đàn trên website này đều được chúng tôi và các thành viên tham gia website tổng hợp từ  tất cả các trang website .Do đó, chúng tôi không chịu trách nhiệm về những dữ liệu được chia sẻ tại đây.Truyện Nội Dung được chia sẻ chỉ với mục đích giải trí, phi lợi nhuận. Mọi bản quyền thuộc về tác giả và nhà xuất bản gốc.Nếu có yêu cầu gỡ bỏ, xin liên hệ qua email
  
truyen tranh,
truyen tranh 8,truyen tranh hay,
truyen tranh online,
ebook,ebook ngon tinh,
van hoc lop 5,van hoc lop 6,van hoc lop 7,van hoc lop 8,van hoc lop 9,van hoc lop 10,van hoc lop 11,van hoc lop 12,
 
     | 
  
 
 
Powered by: vBulletin v3.8.2
 Copyright ©2000-2025, Jelsoft Enterprises Ltd.
 
	
	
		
	
	
 
      |