I- TÌM HIỂU CHUNG
 
 1.	Tác giả:
 
Tác giả của Vũ trung tuỳ bút là Phạm Đình Hổ (1768-1839), quê huyện Cẩm  Bình, tỉnh Hải Dương. Ông sinh trong một gia đình khoa bảng, từng dạy  học ở nhiều nơi.
 
Những tác phẩm mà Phạm Đình Hổ để lại gồm nhiều loại, nhiều lĩnh vực, từ  biên soạn cho đến khảo cứu (triết học, lịch sử, địa lí...), sáng tác  văn học. Riêng sáng tác văn học có: Vũ trung tuỳ bút, Tang thương ngẫu  lục (viết chung với Nguyễn án), Đông dã học ngôn thi tập, Tùng cúc liên  mai tứ hữu, tất cả đều được viết bằng chữ Hán.
 
 
2. Tác phẩm:
 
Tuy chỉ là một tác phẩm tuỳ bút với ý nghĩa là những ghi chép tản mạn  nhưng Vũ trung tuỳ bút lại có giá trị văn học lớn. Một mặt, tác phẩm  phơi bày hiện thực xã hội đen tối lúc bấy giờ đồng thời với nỗi thống  khổ của nhân dân, mặt khác, tác phẩm thể hiện tài năng của tác giả. Dù  tác giả không chủ ý xoáy sâu vào một vấn đề nào nhưng qua những từ ngữ  gợi tả, qua những lời bình luận tưởng như rất bâng quơ, hiện thực cuộc  sống cứ hiển hiện chân thực, sống động trước mắt độc giả.
 
Trong bài văn này, phần đầu tác giả miêu tả cung cách ăn chơi xa hoa của  đám quan quân trong phủ chúa Trịnh, phần sau tác giả đề cập đến nỗi khổ  sở của dân chúng trước sự nhũng nhiễu của đám quan quân. Phần cuối, tác  giả điểm qua một vài ý về gia đình mình. Mọi chi tiết đều có tác dụng  phơi bày sự mục rỗng của chính quyền phong kiến Lê  Trịnh ở vào thời kì  sắp suy tàn.
 
 
3. Thể loại:
 
Nói tuỳ bút là thể văn ghi chép sự việc một cách cụ thể, sinh động nhưng  tuỳ hứng không có nghĩa là bài văn được sắp xếp lộn xộn, không theo  trật tự nào. Thực ra, điều đó chỉ có nghĩa rằng văn tuỳ bút không phụ  thuộc vào một khuôn mẫu cố định nào đó (ví dụ như thơ Đường luật). Tuỳ  theo từng hoàn cảnh cụ thể, tác giả lựa chọn, sắp xếp các chi tiết, sự  kiện theo những trật tự nhất định nhằm làm nổi bật vấn đề.
 
 
4. Tóm tắt:
 
Đoạn trích Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh miêu tả cuộc sống xa hoa ăn  chơi xa xỉ, không màng đến quốc gia đại sự, áp bức, bóc lột nhân dân,...  của vua chúa, quan lại phong kiến thời Thịnh Vương Trịnh Sâm.
 
 
 II- GIÁ TRỊ TÁC PHẨM
 
Khoảng cuối thế kỉ XVIII, tuy ngoài biên giới không có giặc ngoại xâm  nhưng trong nước lại vô cùng rối ren. Các thế lực phong kiến chia bè kéo  cánh thao túng quyền hành, vừa sát hại lẫn nhau vừa ra sức bóc lột của  cải khiến đời sống nhân dân vô cùng cực khổ. Ngoài Bắc, vua Lê chỉ là bù  nhìn, quyền hành thực tế nằm cả trong tay chúa Trịnh. Trịnh Sâm là  người nổi tiếng hoang dâm vô độ. Cậy thế lấn át vua, ông ta thả sức cho  xây hàng loạt cung điện, đền đài nhằm phục vụ cho nhu cầu ăn chơi hoang  phí. Trong bài văn này, tuy tác giả không bộc lộ trực tiếp cảm xúc, thái  độ của mình nhưng qua hàng loạt chi tiết, qua những cảnh, những việc  tưởng như được trình bày hết sức ngẫu hứng của tác giả, bạn đọc có thể  hiểu được phần nào cuộc sống xa hoa, lãng phí của đám quan quân phong  kiến thời bấy giờ, đồng thời cũng có thể cảm nhận được ít nhiều sự phẫn  nộ của tác giả trong hoàn cảnh ấy.
 
Một điểm rất đáng lưu ý khi đọc bài văn này chính là giọng điệu của tác  giả  một giọng điệu hầu như khách quan, không thể hiện một chút cảm  xúc, thái độ nào. Khi cần gọi tên đám quan quân trong phủ chúa, từ chúa  Trịnh Sâm, các quan đại thần cho đến bọn hoạn quan trong cung giám, tác  giả luôn tỏ thái độ cung kính. Thủ pháp quen thuộc thường được sử dụng  là liệt kê, hết chúa đến quan, từ quan lớn đến quan bé, từ sự việc này  sang sự việc khác. Nếu không tinh ý, thật khó có thể xác định được mục  đích của tác giả khi viết đoạn này là gì.
 
Tuy nhiên, qua hàng loạt sự kiện tưởng chừng được liệt kê một cách tuỳ  hứng, có thể phát hiện ra những chi tiết giúp chúng ta hiểu được nội  dung tư tưởng của bài.
 
Phần đầu viết về các cuộc dạo chơi của chúa Trịnh. Tác giả không tả cụ  thể, cũng không đưa ra một lời bình luận nào, nhưng các chi tiết, các sự  kiện cứ như tự biết nói. Chúng phô bày một cuộc sống phù phiếm, xa hoa  với những cuộc dạo chơi liên miên, rồi thì đình đài xây dựng hết cái này  đến cái khác. Theo những cuộc du ngoạn của chúa là đầy đủ các quan đại  thần, binh lính, người phục dịch... Như thế đủ thấy những sinh hoạt đó  tốn kém đến mức nào.
 
Cướp bóc của cải là việc làm quen thuộc của quan quân thời bấy giờ. Nhân dân ta từng có câu:
 
 
Con ơi nhớ lấy câu này
Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan.
 
Tác giả viết rất rõ: "Buổi ấy, bao nhiêu những loài trân cầm dị thú, cổ  mộc quái thạch chậu hoa cây cảnh ở chốn nhân gian, Chúa đều sức thu lấy,  không thiếu một thứ gì". Thật là sự cướp bóc trắng trợn của một vị  chúa. Bất cứ thứ gì chúa muốn, kể cả cây đa to đến hàng mấy trăm người  khiêng cũng được đưa về phủ... Thật trớ trêu khi người đứng đầu triều  đình lại không hề biết tiếc sức người sức của, không biết chăm lo cho  nước, cho dân, chỉ biết cướp bóc, vơ vét để thoả lòng tham không đáy.
 
Liệt kê ra như vậy nhưng tác giả vẫn không đưa ra bất cứ một lời bình  luận nào. Thậm chí ông còn viết cả một đoạn văn dài như là ca ngợi vẻ  đẹp của phủ chúa. Mặc dù vậy, cách miêu tả của tác giả thật đặc biệt:  vừa mới viết "hình núi non bộ trông như bến bể đầu non", tác giả lại bổ  sung: "Mỗi khi đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu vượn hót vang khắp  bốn bề, hoặc nửa đêm ồn ào như trận mưa sa gió táp, vỡ tổ tan đàn, kẻ  thức giả biết đó là triệu bất tường". Câu văn tuy đẹp, lời văn tưởng như  mạnh mẽ nhưng lại nhuốm màu u ám, như báo trước những điều chẳng lành.
 
Vua chúa đã vậy, bọn quan lại cũng tha hồ "đục nước béo cò". Vừa ăn cắp  vừa la làng, chúng không những lấy đi những thứ quý mà còn lập mưu vu vạ  nhằm doạ nạt để lấy tiền. Tác giả gọi chúng là "các cậu" ra vẻ trân  trọng nhưng những hành vi của chúng thì thật bỉ ổi, táng tận lương tâm.  Tác giả không nói gì thì bạn đọc cũng biết: một xã hội mà từ vua chúa  đến quan lại đều không chăm lo gì đến việc nước, chỉ biết tìm cách cướp  đoạt của cải của nhân dân thì xã hội ấy hỗn loạn, bất an đến thế nào.
 
Trong phần cuối, tác giả đưa ra những chi tiết về nỗi khổ của nhân dân  cũng như của chính gia đình mình: "Các nhà giàu bị họ vu cho là giấu vật  cung phụng, thường phải bỏ của ra kêu van chí chết, có khi phải đập bỏ  núi non bộ, hoặc phá bỏ cây cảnh để tránh khỏi tai vạ,... Đó là cảnh  chung, còn trong ngôi nhà của tác giả, những cây cảnh đẹp cũng được sai  chặt đi.
 
Đó là những chi tiết rất đắt giá. Tác giả không tả đám quan quân cướp  bóc của cải mà chỉ nói về cây cảnh. Việc nhân dân tự chặt cây cảnh, đập  bỏ hòn non bộ đã cho thấy một xã hội đầy những bất trắc, người dân phải  phá bỏ chính tài sản của mình để khỏi bị liên luỵ, phiền hà với đám quan  lại xấu xa, tàn ác. Hệ quả được rút ra ở đây là: đến những thứ phù  phiếm như hòn non bộ hay cây cảnh mà chúng còn ngang nhiên cướp đoạt như  vậy thì những thứ quý, hẳn chúng cũng không bỏ qua một cơ hội nào.
 
Bài tuỳ bút được trích tương đối ngắn, nhưng qua những chi tiết, những  sự việc được chọn lọc, được sắp xếp hợp lí, qua cách hành văn, sử dụng  những câu văn đa nghĩa của tác giả, bạn đọc hiểu được rất nhiều điều về  thực trạng xã hội phong kiến lúc bấy giờ.
 
(Sưu tầm)