Tham khảo thêm:
Trong văn học Việt Nam đã có không ít tác phẩm mang tên gọi truyền kì  hoặc mang tính chất truyền kì, song được tôn vinh ” thiên cổ kì bút ”  thì đến nay chỉ có một Truyền Kì Mạn Lục của Nguyễn Dữ. Trong tác phẩm  ấy đoạn trích Chuyện người con gái Nam Xương được xem như đặc sắc nhất   vì đã khắc họa thành công số phận của người phụ nữ dưới chế độ xưa.
 Truyền Kì Mạn Lục là lọai văn chuyên ghi chép tản mạn những điều kì  lạ vẫn được lưu truyền. Trước đó Chuyện người con gái Nam Xương cũng đã  được lưu truyền rộng rãi trong chốn dân gian. Hẳn không mấy ai không  biết đến hai bài thơ viếng thăm nàng Vũ Thị trong Hồng Đức Quốc Âm thi  tập. Hai bài thơ đó chứng tỏ rằng câu chuyện bi thảm về người đàn bà họ  Vũ vợ chàng Trương là có thật. Dù truyện đã được dân gian lưu truyền,  nhưng không phải Nguyễn Dữ chỉ có làm công việc đơn giản: biên chép lại  cho đúng một chuyện kể đã có sẵn từ những năm tháng trước đó mà tác giả  còn phải nhào nặn lại câu chuyện, làm cho nó gần gũi với người đọc, mang  dấu ấn của thời đại mình.
 Truyện mở đầu bằng dòng chữ ” Vũ Thị Thiết , người con gái quê ở Nam  Xương …”.  Tên tuổi, quê quán của nhân vật chính đã được giới thiệu rõ  ràng, không giống như những nhân vật khác: chàng họ Trương, ông họ Phan.  Vũ Thị Thiết là người duy nhất trong truyện được nêu đầy đủ họ tên ,  danh tính để lưu truyền cho hậu thế. Nhưng Vũ Thị Thiết chỉ là một người  đàn bà bình thường, thuộc giới nghèo hèn ” vốn con kẻ khó “, dung mạo  thì không có gì đặc biệt. Thế nhưng nàng đã là một nhân vật lưu truyền  nơi hậu thế . Có lẽ Nguyễn Dữ đã có những nhận thức tiến bộ về xã hội.  Những ràng buộc khuôn pháp đã không còn vững chắc trong tâm trí ông. Ông  quan tâm đến đời sống của mọi người chứ không còn mải mê tìm cảm hứng  văn chương trong đội ngũ những người quý phái hay tuyệt sắc giai nhân  nữa.
 Chính từ quan niệm đó Nguyễn Dữ đã cho ra đời mẫu người phụ nữ lí  tưởng, tuy không phải là giai nhân nhưng lại hội tụ những đức tính, phẩm  chất tốt đẹp cần có ở người phụ nữ Vũ Thị Thiết: ” tính tình thùy mị  nết na lại thêm tư dung tốt đẹp”. Tuy tác giả đã nói rằng hai yếu tố bên  trong và bên ngoài của nàng đều vẹn tòan . chẳng khác nào Kiều xưa kia .  Thế nhưng càng vào sâu trong tác phẩm ta mới nhận ra rằng chữ dung đã  thua chữ tài . Sau mấy lời giới thiệu đầu tiên, thì trong toàn bộ truyện  không còn những câu nào miêu tả vẻ đẹp bên ngòai của nàng Vũ Thị nữa.  Vũ Nương đã chiếm được cảm tình của đọc giả không phải là do tư dung mà  do chính phẩm hạnh của nàng. Phẩm chất ở đây không như cô gái hái dâu Ỷ  Lan hay ả đào nương diệt giặc miền Tiên Lữ. Phẩm chất Vũ Nương là tấm  lòng của người phụ nữ luôn hy sinh vì gia đình. Từ khi về nhà chồng, Vũ  Nương luôn tỏ ra là một người con dâu hiểu thảo, đảm đang, hay lam hay  làm, biết tính chồng hay ghen Vũ Nương luôn cố gắng không để cho vợ  chồng thất hòa, rồi còn lo lắng thuốc than và ma chay tế lễ đầy đủ cho  mẹ chồng nữa. Nàng đã làm tất cả để giữ gìn, vun vén cho hạnh phúc của  gia đình. Thật là một người phụ nữ tiêu biểu cho công dung ngôn hạnh ở  xã hội xưa .
 Trong xã hội xưa, vai vế người phụ nữ trong gia đình thường là thấp  bé nhất. Mẹ chồng kiếm con dâu chỉ cốt để lo toan việc nhà, hay kiếm đứa  cháu nối dõi tông đường. Vậy nên mối quan hệ mẹ chồng và con dâu xưa  nay thường thất hòa. Nhưng trong tác phẩm ta lại thấy Vũ Nương được  chính người mẹ chồng này ca ngợi phẩm giá của mình. Những lời khen này  càng trở nên ý nghĩa hơn, có giá trị hơn gấp bội: “Chồng con nơi xa xôi  chưa biết sống chết thế nào không thể về đền ơn được. Sau này, trời xét  lòng thành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn,  xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ “.
 Vũ Nương thật là một người con gái tài sắc vẹn toàn, luôn đối xử ân  cần với mọi người. Vậy mà người con gái Nam Xương ấy đã bị phụ rẫy, chịu  nhiều oan ức. Tai họa bỗng chốc ập đến. Thật đột ngột! Đến khó tin kì  lạ. Mới ngày nào người con gái ấy còn thổn thức cùng chồng những lời nói  thiết tha đẫm lệ: ” Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét gửi  người ải xa, trông liễu rũ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình thương  người đất khách! Dù có thư nghìn hàng cũng không sợ cánh hồng bay bổng.”  Mới ngày nào cuộc tiễn biết đầy vương vấn nhớ nhung: “Ngước mắt cảnh  vật vẫn như cũ mà lòng người đã nhuộm mối tình muôn dặm quan san!” Những  câu viết không vượt khỏi ước lệ văn chương một thuở nhưng lại có sức  lay động lòng người lạ thường vì tình cảm của đôi vợ chồng son ấy rất  mực chân thành. Vậy mà trời đã phụ lòng người, chỉ ” qua năm sau ” thôi  tất cả đều tan nát. Thay cho “trang”, cho “liễu”, cho “cánh hồng bay  bổng” và “mối tình muôn dặm quan san” chỉ còn là nỗi nghi ngờ, những lời  máng nhiếc đánh đập đến thậm tệ. Công lao nuôi con dưỡng mẹ, làm tròn  bổn phận con dâu đều đổ sông đổ bể, tới mức “không còn có thế lại lên  núi Vọng Phu nữa”.  Nhưng đáng buồn thay, tai họa này chỉ do một lí do  không ai ngờ tới: do cái bóng. Vì nhớ chồng, con lại xa cách cha lâu  ngày nên nàng chỉ còn biết nói cái bóng là Cha Đản. Thế là bé Đản ngây  thơ nên đã tin cái bóng đó là cha ruột của mình và cứ lầm tưởng rằng cha  mình đêm nào cũng đến “mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi”. Và  khi qua tai Trương Sinh thì những lời nói hồn nhiên đó lại trở thành sự  thật, cái bóng thành người, hại cho đời người con gái tài sắc.
 Bóng dần biến thành người. Cái thực lẫn lộn pha trộn cái hư, cái giả  chập chờn trong cái thật. Không phải là người vô cùng thiết tha với hạnh  phúc của một gia đình được sum vầy, đoan tụ Vũ Nương không thể nào nghĩ  ra trò chơi này. Nào ngờ chính nó đã làm tan nát đời nàng. Khi chỉ cái  bóng in trên vách chắc hẳn người thiếu phụ chỉ muốn nguôi đi cảm giác  con mình đang sống vắng cha. Nhưng hóa ra chính vì thế mà nàng đã phải  lìa xa cõi trần tục. Nếu truyện được kể thật đúng theo trình tự thời  gian thì chi tiết chiếc bóng phải được kể trước khi Trương Sinh chờ về.  Nhưng Nguyễn Dữ tài hoa đã để dành lại chi tiết “thắt nút” ấy để rồi đưa  ra ở một vị trí thích hợp trong câu chuyện, gây ra bão giông, khuấy lên  sóng gió. Không còn gì để ngăn được cơn tức tối của kẻ có tính hay ghen  Trương Sinh khỏi nổ bùng.”Thú vui nghi gia nghi thất”, hạnh phúc duy  nhất, niềm mong ước duy nhất của một đời Vũ Nương trong phút chốc hoàn  toàn tan vỡ. “Bình đã rơi, trâm đã gãy, liễu đã tàn trước gió, sen đã rũ  trong ao”, người thiếu phụ chung tình mà bạc mệnh chỉ còn có thể tìm  đễn cái chết để giãi bày tấm lòng trong trắng của mình.
 Nàng đã gieo mình xuống sông Hoàng Giang tự vẫn. Người đời sẽ lưu  truyền thêm một tấm bi kịch về số phận người phụ nữ . Tấm bi kich về cái  đẹp bị chà đạp phũ phàng. Tấm bi kịch này là sự đầu hàng số phận nhưng  cũng là lời tố cáo thói ghen tuông ích kỉ, sự hồ đồ vũ phu của gã đàn  ông và luật lệ phong kiến hà khắc, dung túng cho sự độc ác hủ bại . Nàng  đã gặp một người chồng tuy là con nhà hào phú, song ít học lại đa nghi  đến mức ghen tuông mù quáng nên không thể nhận ra sự hoàn hảo trong phẩm  hạnh của nàng. Rõ ràng sự khiếm khuyết trong tính cách của nhân vật  Trương Sinh đã dồn nàng đến bước đường cùng. Giá như Trương Sinh bình  tĩnh tìm hiểu một chút thôi thì tấm bi kịch chết người kia sẽ không thể  xảy ra. Nhưng đó chỉ là giá như thôi vì Nguyễn Dữ đã đặt dấu chấm than  cho mọi sự đã rồi