Nhà thơ Xuân Diệu vô cùng yêu mến và kính phục nữ sĩ Hồ Xuân Hương  nên  đã đặt cho bà danh hiệu cao quý là “Bà chúa thơ Nôm”. Quả thật, với  tài  năng sử dụng ngôn ngữ dân tộc đạt tới trình độ tinh tế và điêu  luyện, nữ  sĩ rất xứng đáng với danh hiệu đó. Chúng ta có thể lấy hai  bài thơ nổi  tiếng tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật độc đáo của Hồ  Xuân Hương để  chứng minh. 
   
  
  Bài thơ Bánh trôi nước thuộc loại thơ vịnh vật khá phổ biến trong thơ  ca  trung đại, thường được dùng để gửi gắm một cách kín đáo suy nghĩ  hay  thái độ, quan điểm của tác giả trước một vấn đề nào đó có tính chất  xã  hội được nhiều người quan tâm. Hồ Xuân Hương nhìn chiếc bánh trôi  nước  quen thuộc trong dân gian mà liên tưởng tới thân phận long đong,  ba chìm  bảy nổi của người phụ nữ trong xã hội phong kiến trọng nam  khinh nữ đầy  áp bức bất công. Tuy hình thức bài thơ được làm theo thể  thất ngôn tứ  tuyệt Đường luật với quy định khá chặt chẽ về nghệ thuật  và nội dung  nhưng ngôn ngữ thơ thì thuần là lời ăn tiếng nói hằng ngày  của người lao  động. 
    
 
  
 Bánh trôi là thứ bánh được làm bằng bột nếp và đường thẻ. Gạo nếp  ngâm  một đêm cho mềm rồi đem xay thành bột, lọc cho mịn, để thật ráo  nước. Bẻ  từng mẩu nhỏ cỡ đầu ngón tay cái, nặn cho tròn, giữa đặt một  miếng  đường thẻ xắt vuông hạt lựu làm nhân. Thả bánh vào nồi nước đang  sôi để  luộc. Chìm nổi vài lần là bánh chín, vớt ra nhúng sơ vào nước  nguội rồi  xếp vào đĩa, mỗi đĩa khoảng trên dưới một chục cái. Vỏ bánh  trắng trong,  hiện rõ nhân màu nâu đỏ, ăn dẻo, thơm và có vị ngọt đậm  đà. Người xưa  cho rằng đây là thứ bánh tinh khiết, thanh đạm, có thể  dùng để cúng lễ.  (Mùng 3 tháng 3 Âm lịch, dân gian cúng trời đất bằng  bánh trôi, bánh  chay và hoa quả). 
  Hồ Xuân Hương mở đầu bài thơ bằng cách nói quen thuộc trong ca dao: 
   
  
  Thân em vừa trắng lại vừa tròn, 
Bảy nổi ba chìm với nước non. 
   
  
  Những câu ca dao với chủ đề than thân trách phận thường được mở đầu  bằng  cụm từ mang đậm mặc cảm tự ti của người phụ nữ: Thân em như hạt  mưa sa…  Thân em như trái bần trôi… Thân em như miếng cau khô… Trong bài  thơ  này, Hồ Xuân Hương để nhân vật trữ tình tự giới thiệu bằng lời lẽ  khiêm  nhường mà ẩn chứa niềm tự hào chính đáng: Thân em vừa trắng lại  vừa  tròn. Tả chiếc bánh trôi tròn trịa, xinh xẻo nhưng đằng sau những  chi  tiết rất thực ấy, tác giả muốn nói tới thân phận phụ thuộc và vẻ  đẹp  cùng phẩm giá cao quý của người phụ nữ. Xưa nay, phụ nữ được coi là  phái  đẹp, là tinh hoa của Tạo hoá. Bởi vậy, nhìn những chiếc bánh trôi  nước,  ta sẽ nghĩ tới vẻ đẹp trong trắng của những cô gái đương xuân. 
   
  
  Giữa những chiếc bánh trôi nước với thân phận của đa số phụ nữ dưới  chế  độ phong kiến có những nét tương đổng. Người phụ nữ không chỉ bị  ràng  buộc bởi những quan niệm luân lí khắt khe, bị tước đoạt quyền sống  tự do  mà còn bị khinh rẻ và chà đạp lên nhân phẩm. Thái độ trọng nam  khinh  nữ: Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô, hay luật Tam tòng khiến  cho họ  bất bình, phẫn uất nhưng buộc phải cắn răng cam chịu. 
   
  
  Bảy nổi ba chìm là thành ngữ phổ biến mang nghĩa hàm ngôn, dùng để  chỉ  những số phận long đong, lận đận, vất vả trăm bề. Thành ngữ này đã  được  Hổ Xuân Hương vận dụng vào bài thơ thật tự nhiên và phù hợp, diễn  tả  chính xác sự suy ngẫm và nỗi ngậm ngùi, chua xót của nữ sĩ trước  tình  cảnh riêng của bản thân và tình cảnh chung của phụ nữ thời ấy.  Đúng như  lời đúc kết của đại thi hào Nguyễn Du: Đau đớn thay phận đàn  bà, Lời  rằng bạc mệnh cũng là lời chung! 
   
  
  Thấu hiểu điều đó nên Hồ Xuân Hương đã dùng những từ ngữ bình dân,  nôm  na nhưng rất giàu khả năng gợi tả để thể hiện thân phận phụ thuộc  ấy: 
   
  
  Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn, 
Mà em vẫn giữ tấm lòng son. 
   
  
  Không được sống tự do, tự chủ, người phụ nữ nào có khác chi những  chiếc  bánh trôi nước kia ngon hay dở là do tay kẻ nặn. May mắn hay rủi  ro,  hạnh phúc hay bất hạnh đều không thể tự mình quyết định. Nhưng Hồ  Xuân  Hương không chỉ đơn thuần nói đến chuyện đó mà bà muốn nhấn mạnh  tới tấm  lòng son, tức là phẩm giá cao quý của người phụ nữ, dù họ phải  sống  trong hoàn cảnh éo le, trớ trêu tới mức nào. Điều lớn lao ấy đặc  biệt ở  chỗ là nó được nữ sĩ dẫn dắt, khơi gợi từ hình ảnh chiếc bánh  trôi nước  nhỏ bé và xinh xẻo. Bánh trôi lúc chín trắng trong, lộ rõ màu  nhân nâu  đỏ. Từ thực tế ấy mà Hồ Xuân Hương liên tưởng đến tấm lòng  son. Như thế  là ý nghĩa ngụ ngôn mà nữ sĩ gửi gắm trong hình tượng thơ  đã bộc lộ rõ.  Bà muốn khẳng định rằng dù xã hội có nhẫn tâm vùi dập, dù  cuộc đời có  bảy nổi ba chìm đến đâu chăng nữa thì người phụ nữ vẫn giữ  trọn vẹn phẩm  giá cao quý của mình. Cách xưng hô, cách nói trong bài  thơ trước sau  vẫn giữ được vẻ khiêm nhường mà chứa đựng một ý chí kiên  định biết chừng  nào! 
   
  
  Ở bài thơ Tự tình II, về cơ bản Hồ Xuân Hương vẫn giữ phong cách ngôn   ngữ nghệ thuật giản dị, tự nhiên giống như bài thơ Bánh trôi nước để  thể  hiện tâm trạng cô đơn, buồn bã, tủi hờn nhưng vẫn tha thiết yêu  đời,  yêu cuộc sống của mình. 
   
  
  Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn, 
Trơ cái hồng nhan với nước non. 
   
  
  Câu thứ nhất chỉ thời điểm diễn ra tâm trạng. Đó là lúc đêm khuya  thanh  vắng, lâu lâu lại văng vẳng tiếng trống canh. Nghệ thuật lấy động  tả  tĩnh ở đây đã tỏ ra đắc dụng. Tiếng trống canh vang lên bức bối  trong  màn đêm thăm thẳm, mịt mùng khiến cho sự vắng lặng càng tăng lên  gấp  bội. Thời gian trôi qua mới chậm chạp làm sao! Chậm chạp, nặng nề  nhưng  nó vẫn đi. Còn tâm trạng con người trong khung cảnh ấy thì như  lắng đọng  lại và thỉnh thoảng lại như dồn; như thúc, như chồng chất  thêm lên  khiến cho lòng càng đau đớn, dằn vặt khôn nguôi. 
   
  
  Câu thứ hai: Trơ cái hồng nhan với nước non có sự kết hợp tài tình  giữa  ngôn ngữ dân gian và ngôn ngữ văn chương bác học. Hồng nhan có  nghĩa là  gương mặt đẹp của người con gái, thường được dùng để chỉ phụ  nữ nói  chung. Nhưng Hồ Xuân Hương đã cố tình sự vật hóa nó bằng cách  gọi là cái  hồng nhan, lại đặt tính từ Trơ lên đầu câu khiến cho vẻ đẹp  mà Tạo hóa  ưu ái ban cho riêng phái nữ giống như một sự vật vô tri vô  giác nào đó.  Vẻ đẹp là tinh hoa của trời đất, rất đáng nâng niu, trân  trọng. Ấy vậy  mà nó bẽ bàng Trơ ra trước con mắt lạnh lùng vô cảm của  người đời, chứ  không phải chỉ là trơ trọi trước cảnh thiên nhiên, non  nước luôn dào dạt  sức sống, sức yêu. Hồ Xuân Hương đã đặc tả một cách  thần tình nỗi đau  âm ỉ, nung nấu và thiêu đốt tâm can mình bấy lâu bằng  câu thơ giản dị mà  có sức lay động, ám ảnh lạ lùng, Đó là tình cảnh và  tâm trạng bi đát  của nữ sĩ trong thời điểm đặc biệt này. Tưởng chừng  như nỗi cô đơn, sầu  tủi đến mức đắng cay, chua chát đã biến con người  thành gỗ đá. 
   
  
  Nhưng không phải vậy. Trái tim còn đập nên ý thức vẫn còn, nữ sĩ đành mượn rượu giải sầu, muốn say cho quên hết. Khổ nỗi: 
   
  
  Chén rượu hương đưa say lại tỉnh, 
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn. 
   
  
  Hết say lại tỉnh, có nghĩa là đã nhiều lần say và những cơn say nối  tiếp  nhau. Cố say, cố quên, vậy mà lúc tỉnh rượu thì thấy bao nhiêu dối  trá,  hững hờ của người đời vẫn còn sờ sờ ra đó và nỗi đau khổ, bẽ bàng  của  mình cũng cứ còn nguyên. Nỗi cô đơn lại càng tăng lên gấp bội. Ước  mong  một mảy may bù đắp, một chút tròn đầy mà không sao có được. Giống  như  hình ảnh vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn, cuộc đời mình cũng  đã ngả  chiều và chờ đợi cũng đã mỏi mòn mà không biết bao giờ ước  nguyện mới  thành hiện thực?! Sự lựa chọn từ ngữ của Hồ Xuân Hương quả  là đã đạt tới  mức tài tình, chuẩn xác nhưng vẫn tự nhiên, dung dị mà  chứa chất tầng  tầng lớp lớp ý nghĩa, khai thác mãi không vơi cạn.. 
   
  
  Mạch suy tư của nữ sĩ bất chợt rẽ sang một hướng khác. Với tính cách  vốn  mạnh mẽ, bà không thể đắm chìm mãi trong cảm xúc thương thân tủi  phận.  Cố say để quên nhưng không sao quên được. Tỉnh thì đau khổ nhưng  mình  vẫn còn được là mình. Trăng khuyết chưa tròn thì không đến nỗi  tuyệt  vọng. Ngọn lửa niềm tin trong lòng vẫn cháy, nữ sĩ tin vào tình  yêu chân  thành, tha thiết của mình đối với con người và cuộc đời, tin  vào nghị  lực của bản thân. Nhìn rộng ra xung quanh, thấy lời dạy của  đất trời sâu  kín mà rành rành trước mắt, ngụ ở trong từng ngọn rêu,  tảng đá. Hình  ảnh trong bài thơ không có gì là cao xa, khó hiểu mà vô  cùng gần gũi  nhưng vẫn chứa đựng ý nghĩa hàm súc và thâm thúy. Rêu nhỏ  bé, yếu ớt là  thế mà vẫn cố hết sức Xiên ngang mặt đất, vươn lên đầy  sức sống. Đá lầm  lì là vậy mà Đâm toạc chân mây để khẳng định sự hiện  diện của mình. Hồ  Xuân Hương tỏ ra rất táo bạo và sáng tạo trong việc  đảo ngược cấu trúc  thông thường của câu thơ, nhằm thể hiện tới mức cao  nhất ý mình muốn  nói. Tính ẩn dụ của hình ảnh vì thế mà có khả năng gợi  liên tưởng rất  mạnh và có ý nghĩa giáo dục sâu sắc. Nó như nhắc nhở,  thúc giục nữ sĩ  nói riêng và phụ nữ nói chung hãy xiên ngang, đâm toạc  tất cả những gì  phi lí ràng buộc, vây bủa con người để hướng tới một  cuộc sống thật sự  tự do, thật sự hạnh phúc. 
   
  
 Tự tình là mình nói với mình, mình tâm sự, bày tỏ nỗi lòng với  chính  mình, nhưng không phải vì thế mà tính khái quát của bài thơ bị  hạn chế.  Hồ Xuân Hương đã giãi bày rất chân thực tâm trạng cô đơn, tiếc  nuối, xót  xa, cay đắng, chán chường nhưng không tuyệt vọng, vẫn âm ỉ,  le lói ước  mong được chia sẻ, yêu thương: 
  Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại, 
Mảnh tình san sẻ tí con con! 
   
  
  Điệp khúc xuân đi xuân lại lại khẳng định quy luật cua Tạo hóa là  không  thể đổi thay. Biết thế nhưng với tâm trạng trên thì nữ sĩ lại  thấy nó  như trêu ngươi khiến mình càng thêm buồn, thêm tủi. Sự trái  ngược giữa  mùa xuân của thiên nhiên và mùa xuân của đời người làm tăng  nỗi ngao  ngán sẵn có trong lòng bấy lâu nay. Tuổi xuân qua đi không bao  giờ trở  lại. Ngẫm nghĩ về mình thì tấm tình xưa dành cho người, dành  cho đời  rộng rãi, mênh mông là thế, nay sau bao năm không nhận được mảy  may bù  đắp nên chỉ còn một mảnh. Mảnh tình ấy tiếp tục đem san sẻ thì  cũng chỉ  được một tí con con. Cách nói dân gian tự nhiên cộng thêm phần  sáng tạo  của nữ sĩ tài hoa đã cụ thể hóa tình yêu vốn dĩ là một khái  niệm trừu  tượng, biến nó thành dễ hiểu, dễ đi vào lòng người. 
   
  
  Hai bài thơ trên in đậm dấu ấn tính cách và phong cách sáng tác của  Hồ  Xuân Hương – một kì nữ trong nền thơ ca tiếng Việt. Với sự nghiệp  sáng  tác độc đáo để lại cho đời, Hồ Xuân Hương đã góp phần khẳng định  tiếng  Việt của dân tộc ta giàu và đẹp. 
 
 |  
  
 
		
		
		
 
  
 | 
 |