Trong xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ, người phụ nữ là đối  tượng  của áp bức bất công, của nhiều ràng buộc khắt khe đến phi lí.  Thấu hiểu,  thông cảm và thương xót họ, không ít nhà thơ, nhà văn thời  trung đại đã  lên tiếng ca ngợi và bênh vực. 
   
 Đại thi hào Nguyễn Du và nữ sĩ Hồ Xuân Hương là hai tác giả có  những tác  phẩm nổi tiếng viết về thân phận nhỏ nhoi, bất hạnh của người  phụ nữ.  Truyện Kiều hay còn gọi là đoạn trường tân thanh (tiếng kêu  đứt ruột  mới) mãi mãi còn làm cho người đọc xót xa rơi lệ. Nguyễn Du đã  khái quát  bi kịch ngàn đời của phái đẹp qua hai câu thơ: 
   
 Đau đớn thay phận đàn bà, 
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung! 
   
 Bi kịch ấy được ngòi bút tài hoa của thi hào thể hiện vô cùng sinh  động  qua số phận ba chìm bảy nổi của nhân vật Thúy Kiều. Đang sống  trong cảnh  đầy đủ, êm ấm trong giữa vòng tay bao bọc yêu thương của mẹ  cha; sau  cơn vạ gió tai bay bất kì do thằng bán tơ vu oan gây ra, nàng  đành phải  ngậm ngùi trao duyên lại cho em gái để bán mình chuộc cha và  em trai ra  khỏi chốn ngục tù. Người con gái vừa tuổi trăng tròn với vẻ  đẹp nghiêng  nước nghiêng thành và tài năng có một không hai ấy đã cay  đắng chấp nhận  sự bất công của số phận dành cho những kẻ tài hoa bạc  mệnh. Nàng gạt  nước mắt giã biệt gia đình để bước chân lên cỗ xe định  mệnh, lao đi trên  con đường mịt mù vô định. 
   
  Mười lăm năm lưu lạc, Thúy Kiều bị sóng gió cuộc đời vùi dập bao phen   đến chết đi sống lại. Rơi vào hang ổ của lũ quỷ mặt người Mã Giám  Sinh,  Tú Bà, Sở Khanh, Bạc Bà, Bạc Hạnh…, Thúy Kiều bị chúng coi như  một món  hàng vô tri vô giác: Thoắt mua về thoắt bán đi, Mây trôi bèo  nổi thiếu  gì là nơi. Ngay lúc tên ma cô Mã Giám Sinh mua nàng với danh  nghĩa cưới  về làm vợ lẽ thì hắn đã Đắn đo cân sắc cân tài… để rồi Cò kè  bớt một  thêm hai như mua một món hàng ngoài chợ. Lời thơ của Nguyễn Du  khi tả  cảnh này ngậm ngùi, chua xót mà cũng ai oán xiết bao! 
   
   
   
 Rõ ràng ở cái xã hội mà: Trong tay đã sẵn đồng tiền, Dầu lòng đổi  trắng  thay đen khó gì như cái xã hội mà Thúy Kiều đang sống thì nhân  phẩm của  phụ nữ bị coi rẻ, bị chà đạp phũ phàng. Ma lực đồng tiền khiến  những kẻ  xấu xa sẵn sàng nhúng tay vào tội ác, gây ra bao đau khổ cho  người dân  lương thiện. 
Chính sự tương phản gay gắt giữa vẻ đẹp trong sáng, thiết tha của mối   tình đầu Thúy Kiều – Kim Trọng với hiện thực đen tối, phũ phàng đã là   lời tố cáo đanh thép cái xã hội vạn ác được che giấu bởi hình thức tưởng   như thái bình thịnh trị. 
   
 Một thiếu nữ tài sắc vẹn toàn như Thúy Kiều mà không được sống yên  ổn,  hạnh phúc. Tệ hại hơn nữa, nàng bị xô đẩy vào hết cảnh ngộ éo le  này đến  cảnh ngộ éo le khác: Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần. Muốn  thoát  khỏi kiếp sống nhục nhã Đưa người cửa trước, rước người cửa sau,  nàng  đành chấp nhận thân phận lẽ mọn Sắn bìm chút phận cỏn con mà lòng  luôn  mang nặng mặc cảm tội lỗi và lo sợ Khuôn thiêng biết có vuông tròn  cho  chăng? Bởi vì nàng thừa hiểu Dấm chua lại tội bằng ba lửa nồng.  Quả  nhiên, nàng đã bị vợ cả Thúc Sinh là Hoạn Thư đày đọa đến mức cất  đầu  chẳng lên, phải đang đêm bỏ trốn khỏi Quan Âm Các. 
   
 Mười lăm năm tha phương của Thúy Kiều là mười lăm năm sống trong  địa  ngục. Chỉ đến khi gặp được người anh hùng Từ Hải thì số phận nàng  mới  đột ngột đổi thay như bởi một phép màu kì lạ. Từ Hải đã cứu Thúy  Kiều ra  khỏi chốn bùn nhơ, đưa nàng lên địa vị của một bậc phu nhân  quyền quý.  Tưởng chừng như sau bao đau khổ, li tan, giờ đây hạnh phúc  đã mỉm cười  trở lại với nàng; nhưng ngờ đâu phút vui không dài, tên  tổng đốc trọng  thần Hồ Tôn Hiến đã dùng mưu chước thâm hiểm đẩy Từ Hải  vào chỗ chết và  Thúy Kiều buộc phải nhảy xuống sông Tiền Đường để rửa  mối hờn, mối nhục  mà nàng vô tình mắc phải. Màn đêm đen đặc lại phủ  chụp xuống đời nàng  như trước và hơn trước. Dù được vãi Giác Duyên cứu  sống, được đoàn tụ  với gia đình với người yêu nhưng điều quý giá nhất  của con người là tình  yêu và hạnh phúc thì Thúy Kiều đã bị tước đoạt  tàn nhẫn. Nàng còn sống  mà như đã chết. Đoạn vĩ thanh của Truyện Kiều  là một khúc ca buồn làm  cho bao người nức nở. Chính vì thế mà giá trị  hiện thực, giá trị tố cáo  của tác phẩm càng thêm sâu sắc. 
   
 Viết về nỗi đau thân phận của phụ nữ, thi hào Nguyễn Du muốn thông  qua  đó gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh mọi người hãy quan tâm đến quyền  sống,  quyền tự do hạnh phúc của một nửa nhân loại. Tính nhân đạo đặc  biệt đã  khiến Truyện Kiều của ông trở thành một kiệt tác bất hủ của  Việt Nam và  thế giới. 
   
 Nữ sĩ Hồ Xuân Hương, người được nhà thơ Xuân Diệu trân trọng và  kính  phục đặt cho danh hiệu là “bà chúa thơ Nôm” cũng rất nổi tiếng với  những  bài thơ viết về đề tài phụ nữ. Mượn hình ảnh chiếc bánh trôi  nước quen  thuộc trong dân gian, nữ sĩ gửi gắm những suy ngẫm của mình  về thân phận  nhỏ bé và phụ thuộc của người phụ nữ: 
   
 Thân em thì trắng phận em tròn, 
Bảy nổi ba chìm với nước non. 
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn, 
Mà em vẫn giữ tấm lòng son. 
   
 Nhưng dù có phải sống kiếp ba chìm bảy nổi chín lênh đênh thì người  phụ  nữ vẫn giữ được nguyên vẹn phẩm chất tốt đẹp vốn có. Trong những  lời tự  thán đầy xót xa, cay đắng vẫn ẩn chứa niềm tự hào chính đáng của  họ. 
   
 Ở bài thơ Tự tình, nữ sĩ Xuân Hương đã bộc bạch tâm trạng bức xúc  cao độ  của bản thân và cũng là tâm trạng của bao phụ nữ cùng cảnh ngộ  trong xã  hội phong kiến: 
   
 Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn, 
Trơ cái hồng nhan với nước non. 
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh, 
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn. 
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám, 
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn. 
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại, 
Mảnh tình san sẻ tí con con. 
   
 Những ước mơ, khao khát tình yêu, hạnh phúc của người phụ nữ cũng được Hồ Xuân Hương thể hiện qua bài thơ Mời trầu: 
   
 Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi, 
Này của Xuân Hương mới quệt rồi. 
Có phải duyên nhau thì thắm lại, 
Đừng xanh như lá, bạc như vôi! 
   
 Giữa cuộc đời xanh lá bạc vôi, người phụ nữ chỉ cầu mong được hưởng   những tình nghĩa chân thành, ấm áp để có thêm nguồn vui, nguồn an ủi.   Lời cảnh tỉnh nhẹ nhàng mà thấm thía ẩn chứa trong bài thơ có sức lay   động lòng người. 
   
 Điểm tương đồng lớn nhất giữa Nguyễn Du và Hồ Xuân Hương chính là  mối  quan tâm thực sự tới bi kịch của người phụ nữ kéo dài qua bao thế  kỉ.  Thơ Nguyễn Du, thơ Xuân Hương mãi mãi là tiếng kêu thương đứt ruột  xé  lòng, nhắc nhở mọi người nên tôn trọng quyền sống tự do và bình đẳng  của  phụ nữ – những người duy trì sự sống trên trái đất này. Ở đâu mà  người  phụ nữ chưa được thực sự giải phóng và thực sự tôn trọng thì  tiếng kêu  khẩn thiết hãy bênh vực và bảo vệ phụ nữ vẫn còn tính thời sự  nóng hổi  của nó, cho dù nó đã được các thi sĩ cất lên cách đây đã mấy  trăm năm. 
 
 |  
  
 
		
		
		
 
  
 | 
 |