I. VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM
 1. Tác giả
 Chủ tịch Hồ Chí Minh (1890 – 1969) không chỉ là vị lãnh tụ cách mạng  kiệt xuất của nhân dân Việt Nam mà còn là một nhà thơ, nhà văn lớn, nhà  văn hoá lớn của dân tộc và nhân loại. Với quan điểm văn chương là vũ khí  phục vụ cho sự nghiệp cách mạng, trong cuộc hành trình khắp năm châu  bốn biển tìm con đường cứu nước cứu dân, Người đã để lại những tác phẩm  chính luận, những truyện ngắn đặc sắc: 
Bản án chế độ thực dân Pháp, “Vi hành”, Lời kêu gọi của bà Trưng Trắc,… Ngày 2 – 9 – 1945, trước toàn thể quốc dân đồng bào, trước công luận thế giới, Người đã đọc bản 
Tuyên ngôn Độc lập bất hủ, khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
 
2. Tác phẩm
 Cảnh khuya và 
Rằm tháng riêng là hai bài thơ thất ngôn  tứ tuyệt hay được Bác viết trong những năm đầu của cuộc kháng chiến  chống Pháp. Hai bài thơ thể hiện tình cảm với thiên nhiên, tình yêu đối  với đất nước và phong thái ung dung tự tại của Bác Hồ.
 
II. KIẾN THỨC CƠ BẢN
 1. Dựa vào những kiến thức đã biết về thể loại, hãy nhận dạng thể  loại của hai bài thơ bằng việc kiểm tra số câu, số chữ trong mỗi câu,  cách hiệp vần, cách ngắt nhịp.
 2. Hai câu thơ đầu của bài 
Cảnh khuya miêu tả cảnh trăng sáng  về khuya. Tiếng suối chảy trong đêm yên tĩnh nghe trong trẻo như tiếng  hát xa. Trăng sáng lồng bóng cây cổ thụ, rồi xuyên qua từng khe lá rải  xuống mặt đất như hoa. Cảnh trong hai câu thơ đầy thơ mộng, trong trẻo,  dịu dàng và ấm áp.
 3. Hai câu thơ cuối của bài thơ là cái tình say đắm của tác giả trước  vẻ đẹp của thiên nhiên. Có thể nói một trong những lí do khiến “người  chưa ngủ” ấy chính là vì cảnh thiên nhiên quá đẹp. Người vì say đắm  trước vẻ đẹp thiên nhiên mà không nỡ ngủ. Song hai câu thơ cuối còn khắc  hoạ một phương diện khác của Hồ Chí Minh. Bác “chưa ngủ” không chỉ bởi  thiên nhiên quá đẹp và quá ư quyến rũ mà còn bởi “C
hưa ngủ vì lo nỗi nước nhà”.  Cụm từ “chưa ngủ” được nhắc lại hai lần gắn với nỗi băn khoăn về vận  nước, điều đó đủ cho thấy tấm lòng thiết tha vì dân vì nước của Bác Hồ.
 4. Không gian được miêu tả trong bài 
Rằm tháng riêng là một  không gian rộng lớn của trời mây sông nước. Bầu trời, mặt nước, dòng  sông như nối liền, trải rộng bởi sắc xuân bát ngát. Câu thơ thứ hai khá  đặc biệt trong cách tả: cảnh được tả từ gần đến xa, từ thấp lên cao cùng  với sự lặp lại tới ba lần chữ xuân khiến cho câu thơ thất ngôn như tràn  ngập ánh xuân tươi. Sắc xuân, khí xuân như đượm lên cảnh vật.
 5. Bài 
Nguyên tiêu gợi nhớ đến câu thơ: 
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền trong bài 
Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế. Câu cuối của bài 
Nguyên tiêu và câu thơ này của Trương Kế đều nói về lúc đêm khuya (
dạ bán)  và đều nói về hình ảnh con thuyền trên sông nước. Tuy vậy, điểm khác là  ở chỗ, một bên “người khách” đến thăm tác giả là tiếng chuông chùa (Hàn  Sơn), còn bên kia “người khách” ấy chính là trăng xuân chứa chan bát  ngát, đượm tình.
 6. Hai bài thơ này được Bác viết trong những năm đầu kháng Pháp vô  cùng khó khăn gian khổ. Thế nhưng, ở trong thơ, ta vẫn gặp một chủ thể  trữ tình rất yêu thiên nhiên, vẫn ung dung làm việc, vẫn chan hoà cùng  ánh trăng thơ mộng của núi rừng. Người lo lắng cho đất nước nhưng trong  tâm hồn, Bác vẫn dành cho thiên nhiên những niềm ưu ái, không vì việc  quân bận rộn mà Người đành hờ hững, từ chối vẻ đẹp thiên nhiên. Điều này  nói lên phẩm chất lạc quan và phong thái ung dung của Bác.
 7.* Tuy hai bài thơ đều viết về trăng ở chiến khu Việt Bắc, nhưng ở  mỗi bài vẻ đẹp của trăng lại được người thi sĩ cảm nhận bằng một vẻ  riêng.
 Trăng trong Cảnh khuya là ánh trăng đã được nhân hoá. Trăng lồng bóng  vào cây cổ thụ để giãi “hoa” (hoa trăng) trên mặt đất. Cảnh vật như  hiện ra lồng lộng dưới ánh trăng. Thêm nữa, tiếng suối trong đêm trong  trẻo như tiếng ai đang ngân nga hát càng làm cho trăng khuya thêm mơ  mộng.
 Trong khi đó, trăng trong 
Rằm tháng riêng là trăng xuân, trăng  mang không khí và hương vị của mùa xuân. Cảnh ở đây là cảnh trăng ở  trên sông, có con thuyền nhỏ trong sương khói. Nhưng điểm đặc biệt nhất  phải nói đến đó là sự chan hoà của ánh trăng như tràn đầy cả con thuyền  nhỏ.
 
III. RÈN LUYỆN KĨ NĂNG
 1. Cách đọc
 Đọc theo nhịp 4/3, riêng câu đầu tiên của bài 
Cảnh khuya được  tách thành nhịp 3/4. Đọc bằng giọng nhẹ nhàng, sâu lắng, thể hiện được  cảnh đêm trăng, sông nước mênh mang và tình yêu thiên nhiên, đất nước  thiết tha của Bác.
 Khi đọc bài 
Rằm tháng riêng cần chú ý nhấn giọng để thể hiện cảm xúc ở các từ ngữ: 
rằm xuân, lồng lộng, bát ngát trăng ngân ; thể hiện khả năng gợi tả vẻ đẹp của ánh trăng rằm của các từ ngữ: 
rằm xuân, lồng lộng, bát ngát.
 2. Có thể kể ra một số câu thơ Bác viết về trăng như:
 -                                     
Trăng vào cửa sổ đòi thơ
   Việc quân đang bận xin chờ hôm sau.
 (
Tin thắng trận)
 -                            
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
 Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.
 (
Ngắm trăng)