I. VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM
 1. Tác giả
 Thạch Lam (1910 – 1942), tên khai sinh là Nguyễn Tường Vinh, sau đổi  là Nguyễn Tường Lân, là thành viên của nhóm Tự Lực văn đoàn (tổ chức văn  chương khá nổi tiếng trước Cách mạng tháng Tám với các tên tuổi quen  thuộc thời bấy giờ như Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo,…). Lúc đương  thời, văn Thạch Lam không nổi tiếng như các nhà văn khác nhưng một nhà  văn đàn anh đã nhận xét rất tinh tế và chính xác: mai sau, cái còn lại  với đời chính là văn của Thạch Lam chứ không phải là ai khác. Điều này  đã được kiểm chứng qua thời gian. Cho đến bây giờ, nói đến Nhất Linh,  Khái Hưng,… ít người biết nhưng tên tuổi Thạch Lam còn mãi với những  hương vị bâng khuâng, ngọt ngào từ 
Hai đứa trẻ, Dưới bóng hoàng lan, Hà Nội băm sáu phố phường,…
 Văn Thạch Lam rất ít sự kiện, hầu như không có những sự kiện nổi bật,  gay cấn,… thường là phương tiện để các nhà văn cuốn hút người đọc. ấn  tượng sâu sắc mà những câu văn Thạch Lam để lại chính là những dư vị  “thấm sâu vào tận gốc lưỡi” trong từng câu văn, từng hình ảnh nhẹ nhàng  mà đầy rung cảm. Mỗi câu văn của Thạch Lam đều có khả năng làm rung lên  những sợi tơ đàn êm ái trong tâm hồn người đọc, người nghe.
 
2. Thể loại
 - Tuỳ bút “là một thể loại kí. Lối viết tương đối phóng khoáng ; nhà  văn tuỳ theo ngọn bút đưa đi, có thể từ sự việc này sang sự việc kia, từ  liên tưởng này sang liên tưởng kia, để bộc lộ những cảm xúc, những tâm  tình, phát biểu những nhận xét về người và cảnh. Cái bản ngã của nhà văn  được thể hiện gần như trong thơ trữ tình. Tuỳ bút là thể giàu chát trữ  tình nhất trong các loại kí. Những sự việc, những con người nhắc đến  trong tuỳ bút tuy không kết thành một hệ thống chặt chẽ, nhưng phải nằm  trong trật tự hợp lí của dòng cảm xúc, dòng suy nghĩ của tác giả ; và  cũng phải xác thực. Giá trị của tuỳ bút là ở những suy nghĩ sâu sắc,  thâm trầm rút ra từ những sự việc tưởng như riêng tư, bình thường. Sức  lôi cuốn của nó còn ở ngôn ngữ trau chuốt, giàu hình ảnh bất ngờ và lí  thú, tạo ra một chất thơ riêng” (Nguyễn Xuân Nam – 
Từ điển văn học, tập hai, NXB Khoa học xã hội, H., 1984).
 - 
Một thứ quà của lúa non: Cốm được viết theo thể tuỳ bút. Dựa  vào các yếu tố, hình ảnh, sự vật cụ thể như thể kí nhưng bài viết thiên  về cảm xúc trữ tình, chú trọng thể hiện cảm xúc, suy nghĩ của tác giả  trước các hiện tượng, vấn đề của đời sống.
 
II. KIẾN THỨC CƠ BẢN
 1. Bài tuỳ bút này viết về một thứ quà của núi non: cốm. Để nói về  đối tượng ấy, tác giả đã sử dụng các phương thức miêu tả, thuyết minh,  biểu cảm và bình luận. Nhưng phương thức biểu đạt chủ yếu là biểu cảm.
 Bài viết của Thạch Lam có thể chia thành ba đoạn:
 + Đoạn 1: Từ đầu đến “chiếc thuyền rồng” : Hương thơm của lúa non gợi  nhớ đến cốm. Hạt cốm được hình thành từ sự tinh tuý của thiên nhiên và  sự khéo léo của con người.
 + Đoạn 2: Từ “Cốm là thức quà” đến “kín đáo và nhũ nhặn”: giá trị của cốm.
 + Đoạn 3: Phần còn lại: Bàn về sự thưởng thức cốm. Ý nghĩa sâu xa  trong việc hưởng thụ một thứ sản phẩm của thiên nhiên, trời đất, của con  người. Lời đề nghị của tác giả với người mua và thưởng thức cốm.
 2. a) Tác giả đã mở đầu bài viết bằng hương thơm của lá sen trên hồ.  Nó gợi nhớ về cái thức quà thanh nhã và tinh khiết. Tiếp đến, tác giả  miêu tả những bông lúa non, những bông lúa chất chứa cái chất quý trong  sạch của trời đất, nguyên liệu để làm ra cốm.
 b) Cảm giác về hương thơm của lá sen, về màu xanh của cánh đồng, về  mùi thơm mát của lúa non, giọt sữa trắng thơm trong hạt lúa phảng phất  hương vị của ngàn hoa cỏ… đã tạo nên tính biểu cảm của đoạn văn (ca ngợi  sự thanh nhã và tinh khiết của cốm).
 3. Tác giả đã nhận xét: dùng hồng (quả hồng) và cốm làm đồ sêu tết là  rất phù hợp. Cốm là thức dâng của trời đất, mang trong nó hương vị vừa  thanh nhã, vừa đậm đà của đồng nội, có thể lấy làm thứ biểu trưng cho xứ  sở chuyên trồng lúa nước như nước ta. Thứ lễ vật ấy lại đem sánh với  quả hồng với ý nghĩa biểu trưng cho sự hoà hợp tốt đôi thì thật đúng là  một thứ lễ nghi đầy ý nghĩa. Sự hoà hợp và tương xứng của hồng và cốm đã  được tác giả phân tích trên phương diện màu sắc, hương vị. Màu sắc thì  quý giá, hài hoà; hương vị thì hoà hợp và nâng đỡ. Đó đúng là một phong  tục đẹp của nhân dân ta.
 4. “Cốm là thức quà riêng biệt của đất nước, là thức dâng của những  cánh đồng lúa bát ngát xanh, mang trong hương vị tất cả cái mộc mạc,  giản dị và thanh khiết của đồng quê nội cỏ An Nam”. Nhận xét trên đây  của nhà văn thật tinh tế và chính xác. Cốm quả là thứ quà rất độc đáo.  Nó được làm từ sản phẩm gần gũi với người dân quê. Nó là một lễ phẩm mà  cánh đồng dâng tặng con người. Hương cốm là hương của lúa, một thứ hương  mộc mạc, giản dị thanh khiết của đồng quê. Cốm không chỉ là một món ăn  thông thường. Nó trở thành một món quà văn hoá, phong tục nhất là với  phong tục sếu tết trong hôn nhân. Vì thế, cốm đúng là một thức quà riêng  biệt.
 5. Sự tinh tế khi thưởng thức món quà bình dị này thể hiện ở chỗ: ăn  cốm không thể nào ăn vội, vừa ăn thong thả, vừa ngẫm nghĩ thì mới cảm  hết được hương thơm, vị ngon, sự tươi mát của lá non, cái dịu dàng thanh  đạm của thảo mộc.  Mua cốm là nâng đỡ, vuốt ve, kính trọng lộc trời,  công sức của con người. Mua cốm một cách có văn hoá thì  thưởng thức sẽ  trang nhã, ngon hơn và đẹp hơn.
 6.*  Có thể thấy sự tinh tế của ngòi bút Thạch Lam thông qua đoạn  miêu tả và bộc lộ cảm xúc khi sữa lúa hình thành làm nên hạt lúa non. Từ  đó mà làm nên hạt cốm. Sự tinh tế còn thể hiện rõ khi tác giả bộc lộ  cảm xúc về sự hài hoà giữa hồng và cốm, trong đoạn bàn về cách thưởng  thức cốm. Phải là người tinh tế lắm, am hiểu và nhạy cảm lắm mới có thể  thể hiện giá trị của một thứ quà bình dị mà thanh khiết, độc đáo như  vậy.
 
III. RÈN LUYỆN KĨ NĂNG
 1. Cách đọc
 Đọc bài văn bằng giọng thủ thỉ, tâm tình, hình dung như một người  đang trò chuyện, tâm sự, xung quanh là đám đông thính giả đang chăm chú  lắng nghe. Chú ý những đoạn giọng điệu của bài văn thay đổi: “Ai đã nghĩ  đầu tiên dùng cốm để làm quà sêu tết. Không còn gì hợp hơn với sự vương  vít của tơ hồng,…”, tác giả tự nêu lên câu hỏi rồi lại tự trả lời, cách  viết như vậy giúp cho bài tuỳ bút tuy từ đầu đến cuối chỉ thể hiện  giọng điệu của một người mà vẫn sinh động, hấp dẫn.
 2. Sưu tầm thêm thơ văn nói về 
Cốm.
 
Gợi ý:
 - Tham khảo các đoạn thơ sau:
 
Sáng mát trong như sáng năm xưa 
 Gió thổi mùa thu hương cốm mới.
 Tôi nhớ những ngày thu đã xa,
 Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội. 
 (trích 
Đất nước của Nguyễn Đình Thi)
 
Sợi rơm vàng buộc gió
 Lá sen gói sóng hồ
 Nắng đa tình Bến Nghé
 Phải lòng hương cốm thu.
 (Nguyễn Vũ Tiềm)
 
Gắng công kén hộ cốm Vòng
   Kén hồng Bạch Hạc cho lòng thêm vui.
 (Ca dao)
 - Cũng có thể tham khảo thêm tuỳ bút 
Cốm của Nguyễn Tuân (in trong 
Tuyển tập Nguyễn Tuân, tập II, NXB Văn học, Hà Nội, 1994).