



I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
 1. Ngoài các văn bản thơ, truyện quen thuộc, trong văn học còn có văn  bản kịch – một loại văn bản được viết ra không phải để đọc trực tiếp mà  phải cảm thụ gián tiếp thông qua hoạt động sân khấu. Bởi vậy, văn bản  kịch có những đặc điểm khác cơ bản so với các văn bản thơ và truyện:
 - Vai trò của lời dẫn truyện trong văn bản kịch thường rất mờ nhạt, chỉ có ý nghĩa giới thiệu bối cảnh của sự kiện.
 - Lời văn trong kịch chủ yếu là lời thoại của  các nhân vật trên sân   khấu. Để khơi gợi được sự chú ý của người xem trong một khoảng thời  gian tương đối dài, lời văn ấy phải ngắn gọn, súc tích, nhiều ẩn ý. Để  thể hiện mâu thuẫn kịch, lời văn trong đó nhiều khi mang tính đối kháng  gay gắt.
 - Trong truyện cũng thường có mâu thuẫn nhưng mâu thuẫn trong truyện  được diễn giải cụ thể, tỉ mỉ, chi tiết, có thể xen nhiều yếu tố phụ như  miêu tả tình cảm, tâm trạng… Trái lại, do để diễn trên sân khấu nên mâu  thuẫn trong kịch được biểu hiện tập trung và gấp gáp hơn, hầu như không  có những yếu tố phụ.
 2. Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng (1912-1960) quê ở xã Dục Tú, huyện Đông  Anh – Hà Nội. Ông bắt đầu viết văn từ trước 1945. Sáng tác của Nguyễn  Huy Tưởng đề cao tinh thần dân tộc và giàu cảm hứng lịch sử. Từ sau Cách  mạng tháng Tám, Nguyễn Huy Tưởng là một trong những nhà văn chủ chốt  của nền văn học cách mạng.
 3. Văn bản 
Bắc Sơn được trích từ vở kịch cùng tên của Nguyễn  Huy Tưởng, viết về cuộc đấu tranh giữa những người dân yêu nước, ủng hộ  cách mạng với những kẻ phản động, bán rẻ lương tâm, sẵn sàng quỳ gối làm  tay sai cho giặc thời cách mạng Việt Nam còn trong trứng nước.
 4. Các sự việc trong đoạn trích này diễn ra chủ yếu ở gia đình Thơm –  Ngọc. Trước cái chết của cha, Thơm dần dần nhận ra bộ mặt phản bội của  Ngọc. Cô vô cùng đau xót, ân hận. Thái và Cửu bị giặc truy bắt đã chạy  nhầm vào nhà Thơm, được Thơm che giấu và cứu thoát.
 5. Trong một vở kịch, tình huống đóng vai trò hết sức quan trọng. Nó  thúc đẩy nhanh diễn biến sự việc, buộc các nhân vật phải hành động, qua  đó bộc lộ tính cách, phẩm chất cũng như tư tưởng, quan điểm… Xung đột  kịch trong hồi bốn được bộc lộ qua tình huống hết sức căng thẳng. Ngọc  dẫn bọn lính đi lùng bắt cán bộ và du kích. Thái và Cửu bị Ngọc và đồng  bọn đuổi bắt lại chạy đúng vào nhà Ngọc. Tình huống ấy buộc Thơm phải có  sự lựa chọn dứt khoát: hoặc là để cho Ngọc bắt cán bộ thì được yên  thân, hoặc là che giấu họ ngay trong nhà mình thì sẽ vô cùng nguy hiểm.  Bằng việc che giấu cho hai người, Thơm đã đứng hẳn về phía cách mạng.
 Sự xuất hiện của hai người cán bộ cách mạng ở Lớp II đã đẩy mâu thuẫn  kịch phát triển theo một chiều hướng khác. Trong hoàn cảnh bị địch truy  bắt, lòng tin của những người cán bộ cách mạng đối với quần chúng nhân  dân có ý nghĩa vô cùng quan trọng, liên quan đến sinh mệnh của mỗi  người, rộng hơn nữa là liên quan đến sự thành bại của cách mạng.
 6. Trong lớp kịch này, sức hấp dẫn từ nhân vật Thơm không phải là  cuộc đấu tranh giữa cái sống và cái chết, cũng không ở sự đắn đo nên che  giấu hay khai báo việc hai người cán bộ đang ở trong nhà mình. Khi Cửu  và Thái mới xuất hiện, Thơm có hoảng hốt nhưng chủ yếu là do bị bất ngờ.  Qua phút hốt hoảng ban đầu, Thơm đã quyết bảo vệ hai người cán bộ. Cô  không băn khoăn đến mối nguy hiểm khi cả gan che giấu cán bộ cách mạng  mà chỉ lo lắng vì không biết bảo vệ họ như thế nào. Hoàn cảnh bức bách  đã làm bật lên hành động cao đẹp của một quần chúng yêu nước. Cô nhanh  trí đẩy họ vào buồng trong (theo phong tục của nhiều dân tộc thiểu số,  gian buồng là nơi cấm kị đối với người lạ). Bằng cách táo bạo ấy, cô đã  khiến cho Ngọc không mảy may nghi ngờ.
 Ở Lớp III, tính chất khốc liệt và éo le của hoàn cảnh đã đẩy mâu  thuẫn kịch phát triển đến đỉnh cao. Một bên là Thơm, người đã cả gan  vượt khỏi tập tục, chống lại chồng, che giấu cán bộ cách mạng ngay trong  buồng nhà mình. Một bên là Ngọc, đang trong cuộc vây bắt cán bộ để lập  công với kẻ thù. Ngọc hoàn toàn không biết những người cán bộ mà hắn rắp  tâm truy bắt để lập công lại đang ở ngay trong buồng nhà mình. Hắn nấn  ná ở lại, không chịu đi ngay chỉ vì ham quấn quýt với người vợ trẻ đẹp  của mình.
 Hoàn cảnh trớ trêu đó đã làm cho tính kịch được tô đậm. Ngọc chỉ vô  tình nhưng hắn càng nấn ná thì Thơm lại càng sốt ruột. Diễn biến tâm lí  của nhân vật diễn ra khá phức tạp, có thể hình dung theo các giai đoạn:
 Ban đầu, Thơm giả bộ ngọt ngào với chồng, lại còn tỏ ra ân hận về  những lời nói không phải với chồng trước đó, mục đích để Ngọc không nghi  ngờ gì.
 Khi biết lối ra vườn đã vô tình bị chặn (do đồng bọn của Ngọc đợi hắn  ngoài đó), Thơm cố tình nói to lên để cán  bộ biết mà đề phòng, không  ra theo lối ấy.
 Thơm tìm cách đẩy chồng đi để nhanh chóng giải thoát cho hai người  cán bộ. Điều này hoàn toàn mâu thuẫn với thái độ của Thơm ban đầu (cố  giữ chồng ở nhà). Mặc dù tỏ vẻ ngạc nhiên nhưng rất may là Ngọc không  nhận thấy sự bất thường đó có nghĩa gì.
 Trong lớp này, mọi lời nói, hành động của Ngọc chỉ vô tình nhưng sự  vô tình đó lại làm  cho vở kịch thêm hấp dẫn. Người nghe, người xem hồi  hộp theo dõi mọi lời nói, hành động của nhân vật Thơm. Thơm ở trong tình  cảnh rất khó xử: nếu đẩy chồng đi lộ liễu quá sẽ làm cho hắn nghi ngờ.  Nếu giữ chồng lại như ban đầu, biết đâu hắn chẳng ở lại thật, như thế  hai người cán bộ sẽ gặp phải nguy hiểm. Bởi vậy, một mặt Thơm phải khéo  nói dựa theo những lời của chồng khiến hắn không nghi ngờ gì, mặt khác  lại phải tìm cách đẩy hắn đi thật nhanh.
 Lòng tin và quyết tâm bảo vệ Đảng, bảo vệ cách mạng đã khiến Thơm trở  nên nhanh trí, chính xác trong lời nói cũng như việc làm. Cô không  những đã cứu cho hai người cán bộ khỏi bị địch bắt mà còn mang đến cho  họ lòng tin vào sức mạnh của quần chúng.
 7. Trong hồi bốn, Ngọc đã bộc lộ đầy đủ bản chất cua một tên Việt  gian bán nước. Vốn chỉ là một anh nho lại có địa vị thấp kém, Ngọc nuôi  tham vọng ngoi lên để thoảm mãn lòng ham muốn địa vị và tiền bạc. Khi  cuộc khởi nghĩa nổ ra, Ngọc đã rắp tâm làm tay sai cho giặc. Hắn dẫn  quân Pháp về đánh Vũ Lăng – căn cứ của lực lượng khởi nghĩa, sau đó lại  ra sức truy lùng những người cách mạng, đặc biệt là Thái và Cửu. Tuy  Ngọc cố che giấu nhưng dần dần bản chất xấu xa của Ngọc đã bị lộ ra,  điều đó càng thúc đẩy Thơm dứt khoát đứng về phía cách mạng.
 Trong hổi bốn, Thái và Cửu chỉ là những nhân vật phụ, xuất hiện trong  chốc lát. Bị giặc truy đuổi, lại chạy nhầm vào chính nhà tên Ngọc nhưng  Thái đã hết sức bình tĩnh, sáng suốt, đồng thời rất tin tưởng vào sự  ủng hộ của quần chúng, ngay cả khi đó là vợ cua rmột tên Việt gian. Khác  với Thái, Cửu có phần nôn nóng, thiếu chín chắn. Anh nghi ngờ Thơm,  thậm chí còn định bắn cô…
 Việc tác giả xây dựng những tính cách vừa đối lập vừa khác biệt ấy  cũng là yếu tố quan trọng góp phần thúc đẩy hành động kịch, đồng thời  tạo được sức cuốn hút đối với bạn đọc.
 8. Tuy mâu thuẫn chưa được đẩy đến mức gay gắt, quyết liệt nhưng đoạn  trích (và tác phẩm nói chung) đã tạo nên được sức hấp dẫn lớn đối với  người đọc, người xem bởi nó đã đặt ra và giải quyết được những vấn đề  lớn của cách mạng: đó là mối quan hệ giữa cách mạng và nhân dân, là lòng  tin của người cán bộ cách mạng vào tình cảm yêu nước cũng như lòng  nhiệt tình cách mạng của quần chúng. Vở kịch đã chứng minh rằng: khi đã  được nhân dân tin yêu và bảo vệ, những người chiến sĩ cách mạng có thể  vượt qua bất cứ trở ngại, khó khăn nào.
 
II. RÈN LUYỆN KĨ NĂNG
 1. Luyện đọc kịch, thể hiện lời đối thoại, phân biệt lời dẫn chuyện.
 2. Tóm tắt:
 Các sự việc trong đoạn trích này diễn ra chủ yếu ở gia đình Thơm –  Ngọc. Trước cái chết của cha, Thơm dần dần nhận ra bộ mặt phản bội của  Ngọc. Cô vô cùng đau xót, ân hận. Thái và Cửu bị giặc truy bắt đã chạy  nhầm vào nhà Thơm, được Thơm che giấu và cứu thoát.