Nghiên cứu toàn bộ tác phẩm của các tác giả văn học, ta thường thấy trong thế giới nghệ thuật của mình các nhà văn thường có  một  số hình tượng tâm huyết cứ lặp đi lặp lại nhiều lần như một “ ám ảnh’  đối với nhà văn ấy .Trong thơ Hàn Mặc Tử, ta thường thấy ông hay nói đến  trăng nên trăng trở thành hệ thống hình tượng ám ảnh trong thế giới  nghệ thuật của ông.Với Hàn Mặc Tử ,trăng trở thành người bạn tâm tình an  ủi xoa dịu  nỗi đau thể xác và  trăng là đối tượng để Hàn Mặc Tử vươn tới cõi đẹp vĩnh hằng quên đi mọi  bất hạnh mà chính mình phải chịu. Với Vũ Trọng Phụng, nhân vật thầy  tướng số bói toán có mặt trong hầu hết tác phẩm của ông. Nói như giáo sư  Nguyễn Đăng Mạnh: ”Đó là yếu tố tư tưởng nghệ thuật cơ bản của Vũ Trọng  Phụng có  nội dung triết lí bi  quan định mệnh chủ nghĩa nẩy sinh như là một điều tất yếu của con người  thông minh sắc sảo, ham triết lý thích khái quát, ráo riết đi tìm nghĩa  lí  của cuộc đời mà bất lực”. Với Quang Dũng hệ thống hình tượng ám ảnh trong thế giới nghệ thuật của ông là hình tượng đôi mắt.
 
 Trong thơ Quang Dũng hình tượng đôi mắt cứ lặp đi lặp lại với nhiều dáng vẻ khác nhau. Năm 1948  rời  Tây Tiến, ngồi ở Phù Lưu Chanh trong nỗi nhớ khôn nguôi về chốn cũ,  Quang Dũng đã sáng tác bài thơ Tây Tiến. Bài thơ đã khắc họa chân dung  người lính Tây Tiến bằng hai bút pháp tả thực và lãng mạn. Ở bút pháp tả  thực, người lính Tây Tiến hiện lên với bao nỗi gian khổ nghiệt ngã như  bị bệnh sốt rét và thương hàn khiến tóc người nào người  nấy đều rụng hết và da người nào  người  nấy bủng như da chanh xanh như tàu lá. Còn ở bút pháp lãng mạn tác giả  tả đôi mắt của họ mở to ,sáng quắc, trừng trừng, dữ dội tỏ rõ khí phách  oai hùng. Thế nhưng bên trong họ lại  có trái tim đong đầy thương nhớ tình tứ:
 
 Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc 
 Quân xanh màu lá dữ oai hùm
 Mắt trừng gởi mộng qua biên giới 
 Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
 
 Bên cạnh đôi mắt oai hùng, ta còn bắt gặp đôi mắt  tràn đầy tình cảm với bao thương nhớ,  biết buồn cô quạnh trong những sáng heo may, biết mong chờ bên dòng sông  mưa rơi lớp lớp.Đó là hình ảnh đôi mắt trong bài thơ Đôi bờ được sáng tác 1948:
 
 Thương nhớ ơ hờ thương nhớ ai?
 Sông xa từng lớp  lớp mưa dài
 Mắt kia em có sầu cô quạnh
 Khi chớm heo về một sớm mai?
 
 Khác với hai đôi mắt trên,  ở  bài Mắt người Sơn Tây, tác giả sáng tác năm 1949 trong hoàn cảnh cuộc  kháng chiến chống Pháp đi vào hồi quyết liệt,khói lửa chiến tranh mịt  mù. Ngoài tên đề nhấn mạnh đến Mắt người Sơn Tây, trong bài thơ tác giả  còn nhắc đi nhắc lại hai lần hình tượng đôi mắt. Một là cùng với vầng  trán yêu thương vương mang cả  đất trời quê hương, đôi mắt bấy giờ lại tỏa ra ánh buồn dìu dịu của hồn quê Tây Phương:
 
 Vầng trán em mang trời quê hương
 Mắt em dìu dịu buồn Tây Phương
 Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm
 Em đã bao ngày em nhớ thương?...
 
 Hai là hình tượng  đôi mắt của nỗi niềm u uẩn lưu lạc khôn khuây trong những ngày quê  hương đầy bóng giặc:
 
 Đôi mắt người Sơn Tây 
 U uẩn chiều lưu lạc
 Buồn viễn xứ khôn khuây
 
 Cùng năm 1949 tác giả còn sáng tác bài Lính râu ria. Bài thơ vừa mang tính  tự  sự vừa mang tính trữ tình. Ở tính tự sự Quang Dũng kể không gian là bên  bờ sông vắng , một cái quán tản cư nhỏ.Thời gian là một đêm khuya  khoắt.Những người lính đi ngang qua đó , người thì gọi cà phê, người thì  gọi thuốc lá... Có một anh lính tuổi vừa ba mươi hỏi chị chủ quán bán  cho li rượu và hỏi cháu bé ngủ ở đâu? Rồi anh bế con chị…Kế đến tác giả  tả đứa bé năm tháng  tuổi  với  cái má hồng như trái mận, nụ cười chúm chím dễ thương sao. Đặc biệt  Quang Dũng cũng không quên tả đôi mắt. Đôi mắt của đứa bé sáng trong  đẹp, nhìn trông như  sao trời:
 
 Khuya khoắt bờ sông vắng  
 Lửa hồng quán tản cư
 Lính mấy chàng vất vả
 Tìm sống một đêm thơ
 Một người kêu cà phê
 Một  anh gọi thuốc lá
 Một người nhìn sau trước…
 ….
 Chị ơi!  Cháu ngủ đâu
 Rồi anh bế con chị
 Anh lim dim cúi đầu
 Cô bé cười chúm chím
 Mắt non nhìn như sao
 Đôi mắt nhìn như sao
 Má hồng như trái mận
 …
 Và  cũng năm 1949, trong một chuyến đi công tác ở Đan Nê, nhà thơ đã cảm  xúc sáng tác bài Nhớ. Quang Dũng nhớ đến một mái nhà tranh ở cuối làng.  Nhớ đến gia cảnh rất nghèo khó. Nhớ một  mẹ  già đang bị sốt. Nhớ bữa cơm đạm bac mà ngon miệng. Nhớ mẹ già nghèo  tốt bụng tiền cơm không lấy. Và đặc biệt nhớ đôi mắt sáng trong tươi trẻ  của đứa cháu gái mồ côi:
 
 Cháu mồ côi - cháu gái
 Mắt sáng trong đang tập đánh vần
 
 Trong bài Hồng Phú Châu Giang sáng tác năm 1957, nhà thơ ghi nhận lại một chặng  dài  của thời gian thay đổi của quê hương từ những ngày kháng chiến chống  Pháp cho đến những năm sau hòa bình 1954. Trong tất cả những ghi nhận  khó quên ấy, Tác giả cũng không quên chú ý đến đôi mắt đẹp của những cô  hàng tạp hóa ở Hồng Phú( nay là Phủ Lí  tỉnh Hà Nam):
 Hồng Phú, những cô hàng tạp hóa
 
 Mắt đẹp nhìn bâng khuâng 
 Quang  Dũng và Hữu Loan là hai người bạn, trước 1954 cả hai cùng gia nhập quân  đội tham gia kháng chiến chống Pháp. Sau hòa bình lập lại, cả hai cùng  lận đận. Hữu Loan về quê làm  lao động chân tay thồ đá, còn Quang Dũng thì ngày ngày đi lượm củi lá khô giúp  vợ đun bếp. Những ngày lận đận ấy Quang Dũng  không  liên lạc được với Hữu Loan, ông phải gởi nỗi thương, nỗi xót, nỗi nhớ  và cả niềm khâm phục trong bài Nhớ bạn sáng tác năm 1965. Trong bài thơ  ấy  tác giả cũng nhắc đến hình ảnh đôi mắt,nhưng không phải đôi mắt sáng trong hay đôi mắt u buồn mà là đôi mắt có màu  cao xanh bề thế rộng lớn của da trời để xứng hợp với hình ảnh đôi vai, hình ảnh con chim phượng hoàng, và con chim đại bàng :
 …
 Ai mắt đọng da trời
 Đôi vai rộng 
 Đã thồ bao đá núi 
 Mồ hôi uổng tháng ngày
 Con chim phượng hoàng
 Con chim đại bàng
 Nuốt lửa kiếm rau
 Ngày trọn bữa…
 Càng về sau trong thơ Quang Dũng , hình ảnh đôi mắt  mang  một dáng vẻ triết lí với đời. Điều đó chúng ta có thể thấy rõ nhất  trong Hai bai thơ tình được tác giả viết kết hợp vừa thơ, vừa thơ văn  xuôi. Ở đó người đọc có thể bắt gặp đôi mắt mơ màng trong khói thuốc  chiều sông hoặc đôi mắt khóc hết đến hết nước mắt cho đời : 
 
 Khói thuốc chiều sông hỡi dáng người
 Phượng nào đôi mắt  ngó xa xôi
 Có ai thấu được niềm u uẩn
 Từng lắng nhiều phen những mảnh đời
 …
 Thời đại bao lần khô nước mắt
 Hoa đèn riêng gửi chút tâm tư
 Ngắn dài đã học người thiên cổ
 Vạn đại sầu lên chẳng bến bờ
 
 Bên  cạnh hình ảnh đôi mắt mang dáng vẻ triết lí , trong bài Hai bài thơ  tình, tác giả còn xem đôi mắt là một nghệ thuật của cái đẹp. Cùng với  mái tóc dài, vầng trán cao, đôi mắt có sức quyến rủ say mê:
 Vầng trán em cao, sáng ngời linh hồn. Ôi đẹp và say đôi mắt
 …
 Ôi mái tóc – đôi mắt thẳm xưa
 Tất cả mắt em là nghệ thuật
 Nhớ em dòng tóc dài đôi mắt…
 
 Khi nhà thơ hồi tưởng về “cô gái vườn ổi” của một thời yêu hai mươi năm trước. Người vườn ổi ấy đã về quê nhà  lúc vùng quê đang mùa lúa chín. Cô gái đến nhà, mẹ  tác  giả ra đón. Cô gái bước lên thềm với ánh mắt tươi cười. Thông thường  người ta nói miệng nở nụ cười hay cười ở đôi miệng. Ở đây, Quang Dũng  lại phát hiện ra ở cô gái cười nơi đôi mắt:
 
 …Đường về quê hương mùa lúa chín
 Chim ngói bay vào thửa tám thơm
 Em đã đi về xem gặt lúa
 Làng anh bừng sáng cả đường thơm
 Mẹ đã chiều em như gái nhỏ
 Thềm cao em bước mắt tươi cười
 
 Như  vậy ta thấy thơ Quang Dũng, trong cái hùng có đôi mắt, trong cái bi có  đôi mắt,trong cái vui có đôi mắt, trong cái đẹp có đôi mắt, trong hiện  tại có đôi mắt , trong quá khứ kỉ niệm có đôi mắt,trẻ con có đôi mắt trẻ  con, người yêu có đôi mắt của người yêu…Tựu trung trong thơ Quang Dũng  hình tượng đôi mắt cứ lặp đi lặp lại và trở thành hệ thống hình tượng ám  ảnh trong thế giới nghệ thuật của ông. Ta có thể chia hình tượng đôi  mắt trong thơ Quang Dũng ra như sau:Đôi mắt mang thuần tính hội họa và  đôi mắt thể hiện tính triết lí, nhân sinh quan cuộc đời. Người ta thường  nói ‘thi trung hữu họa”. Quang Dũng là nhà thơ, điều này ai cũng biết,  nhưng bên cạnh đó Quang Dũng còn là một họa sĩ tài hoa. Hai lĩnh vực này  cùng tồn tại trong con người Quang Dũng  nên trong thơ ông giàu hình ảnh, màu sắc. Ai cũng biết  họa  chân dung một con người, cái khó nhất là ở đôi mắt. Đôi mắt như thế nào  để thể hiện rõ niềm vui, nỗi buồn hay cá tính của người ấy. Cái đó thật  là khó vì “đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn”. Nhà thơ Quang Dũng chịu ảnh  hưởng của cái phần con người họa sĩ mang trong mình ấy nên khi tả chân  dung một con người ông thường hay nói đến đôi mắt. Đôi mắt trong thơ ông  dường như đã thể một cách nhạy cảm các cung bậc tâm hồn ông – một nhà  thơ mà cuộc đời đã không công bằng phải chịu nhiều nỗi thăng trầm…
 
 Từ những yếu tố hình tượng nghệ thuật đôi mắt  có  tính hệ thống nói trên, ta thấy một trong những biểu hiện tư tưởng nghệ  thuật của Quang Dũng là thông qua đôi mắt, tác giả muốn nói đến cái đẹp  ở chân dung, đẹp ở tấm lòng, đẹp ở”giữ tình người cho đẹp”./.
  
 
 |  
  
 
		
		
		
 
  
 | 
 |