Lá  thư bị đốt cháy
 Puskin
   1.  Thôi từ biệt, lá thư của tình yêu, từ biệt
 Nàng đã quyết sao ta  còn luyến tiếc
 Sao bàn tay mãi  chẳng chịu buông ra
 Cho lửa thiêu hết  thảy niềm vui sướng của ta!
 2. Nhưng đã đủ. Hỡi  tình thư bốc cháy!
 Tâm hồn ta không còn  nghe, chẳng thấy
 Ngọn lửa tham đã  nhận bức thư em…
 Gượm chút nào! Một  làn khói nhẹ êm
 Quần quại, tan đi  với lời ta cầu khẩn
 Vết xi cháy sủi lên,  tan hình chiếc nhẫn
 Ôi trời đất, tất cả  thế là xong!
 Những trang giấy đen  còn hãy quăn xong,
 Tàn mỏng mảnh còn  ghi trăng trắng chữ…
 3. Lòng thắt lại.  Tàn thân yêu quý hỡi!
 Một niềm vui nghèo  cực xót xa
 Còn lại đời đời trên  ngực với ta
                          Xuân Diệu dịch
 Dịch nghĩa 
 Vĩnh biệt, lá thư  của tình yêu, vĩnh biệt! Nàng đã ra lệnh…
 Sao tôi chần chừ lâu  thế, sao bàn tau lâu chẳng chịu
 Giao cho ngọn lửa  tất cả mọi niềm vui của tôi
 Nhưng đủ rồi, giờ đã  đến. Cháy đi bức thư của tình yêu!
 Tôi đã sẵn sàng.  Lòng tôi giờ chẳng còn lắng nghe gì nữa.
 Ngọn lửa tham lam  đang nhận lấy từng trang thư của em.
 Khoan một phút thôi!  Bùng lên… cháy rồi… làn khói nhẹ
 Cuộn quanh tan đi  cùng với lời cầu nguyện của tôi.
 Vết xi gắn đã cháy  sủi lên làm tiên tan mất
 Dấu ấn chiếc nhẫn  thủy chung… Ôi thiên mệnh!
 Đã hoàn thành rồi!  Những tờ giấy đen quăn cong lại
 Trên tàn mỏng mảnh  còn trăng trắng nét chữ thân thương.
 Niềm nui nghèo nàn  trong cuộc đời sầu bi của tôi
 Hãy còn lại mãi mãi  cùng tôi trên tấm ngực đau thương.
     Phân tích
     Puskin  (1799-1836) là “Mặt trời thơ ca của nước  Nga”. Ngoài những trường ca “Người tù  KapKaz”, “Kị sĩ đồng”…, ông  còn để lại 800 bài thơ trữ tình, trong đó có nhiều bài thơ tình rất nổi tiếng.  Bài thơ “Lá thư bị đốt cháy” được Puskin  sáng tác vào năm 1825, khi nhà thơ còn bị chính quyền chuyên chế Nga hoàng lưu  đầy và bị quản thúc tại làng Mikhailốpxkôiê - quê ngoại hẻo lánh thuộc miền Tây  Bắc Nga. Mặc dù bị cách li với thế giới rộng lớn bên ngoài, nhưng ông vẫn được  sáng tác, được in những tác phẩm của mình và trao đổi thư từ với bạn bè và người  thân.
     “Lá  thư bị đốt cháy” thể hiện nghệ thuật  sử dụng chi tiết trong bút pháp trữ tình của Puskin để diễn tả cảm xúc và tâm trạng  một cách nồng nàn nhất, say đắm nhất.
     “Lá thư” là của  người yêu phương xa gửi tới, trên có gắn xi, có in “dấu ấn chiếc nhẫn thủy  chung”. Người yêu của nhà thơ là một người đẹp đã “ngự trị” trong tâm hồn nhà  thơ, đầy “quyền uy”. Phái là người đẹp được nhà thơ “tôn thờ” nên “Nàng đã ra  lệnh” cho người tình đọc xong phải đốt thư ngay. Đó là mệnh lệnh của trái thu,  của tình yêu. Mặc dù vậy, chàng trai vẫn “chần chừ”, vẫn giữ lại trong tay “lâu  chẳng chịu” trao cho ngọn lửa. Bức thư tình của người đẹp quý giá biết bao  nhiêu. Trong hoàn cảnh bị quản thúc mất tự do, sống trong cô đơn, thì bức thư  tình của người yêu nơi xa xôi gửi đến là vô giá, vì nó là “tất cả mọi niềm vui”  của Puskin. Nhà thơ thốt lên hai lần tiếng “vĩnh  biệt” điều đó nói lên nỗi đau vô hạn của mình, khi phải đốt cháy bức  tình thư! Không hiểu vì sao, thi sĩ Xuân Diệu thay bằng “từ biệt” trong bản dịch thơ?
 “Thôi từ biệt, lá  thư của tình yêu, từ biệt
 Nàng đã quyết sao ta  còn luyến tiếc
 Sao bàn tay mãi  chẳng chịu buông ra
 Cho lửa thiêu hết  thảy niềm vui sướng của ta!”
     Câu thơ trong  nguyên tác viết dưới hình thức câu hỏi tu từ cực tả sâu sắc nỗi đau đớn, sự ngập  ngừng luyến tiếc, phút chần chừ do dự của nhà thơ trước khi đốt cháy bức thư:  “Sao tôi chần chừ lâu thế, sao bàn tay lâu chẳng chịu…”.
     Cuốc đấu tranh  nội tâm diễn ra: đốt bức thư tình, làm theo điều “nàng đã ra lệnh” hay giữ lại  kỷ vật thiêng liêng chứa đựng trong đó, nét chữ, giọng tâm tình, lời yêu thương  nồng nàn say đắm… Đốt bức tình thư trong hoàn cảnh ấy đối với Puskin là một hành  động cao thượng, tự hy sinh vì tình yêu. Một chút ngập ngừng và người con trai  phải làm theo “mệnh lệnh” người yêu, châm lửa đốt. Dòng thơ bị cắt ra thành  nhiều câu diễn tả sự ngập ngừng, thảng thốt:
 “Nhưng đủ rồi, giờ  đã đến. Cháy đi bức thư của tình yêu!
 Tôi đã sẵn sàng.  Lòng tôi giờ chẳng còn lắng nghe gì nữa.”
     Tâm hồn ta không  còn nghe, chẳng thấy người con trai đau đớn, bàng hoàng nhìn ngọn lửa và bức thư  bén lửa bốc cháy. Lời thơ run lên cùng nỗi lòng đau đớn, xót xa:
 “Ngọn lửa tham đã  nhận bức thư em…
 Gượm chút nào! Một  làn khói nhẹ êm”
     Puskin đã sử  dụng và sáng tạo một hình ảnh ẩn dụ - nhân hóa để làm nổi bật nỗi lòng xót xa,  tiếc nuối khi nhình bức tình thư đang cháy: “Ngọn lửa tham lam đang nhận lấy  từng trang thư của em”. Nhà thơ cầu khẩn van lơn: “Gượm chút nào!...”. Những câu  thơ tiếp theo tả làn khói, ngọn lửa, vết xi gắn trên bức thư in dấu ấn chiếc  nhẫn… Ba tiếng: “Ôi thiên mệnh!” như một tiếng kêu rên. Thiên mệnh là mệnh trời.  Một tình yêu đẹp do trời sắp đặt. Bức thư bị đốt cháy cũng là do ý trời. Hình  ảnh bức thư bị đốt cháy đối với người con trai mang màu sắc cao cả thiêng  liêng:
 “Quần quại, tan đi  với lời ta cầu khẩn
 Vết xi cháy sủi lên,  tan hình chiếc nhẫn
 Ôi trời đất, tất cả  thế là xong!”
     Xuân Diệu không  dịch được các từ ngữ: “Thủy chung”, “thiên mệnh!”. Việc dịch thơ là một sáng tạo  nghệ thuật chẳng chút dễ dàng.
     Thương tiếc, đau  đơn, nhìn đăm đăm vào mảnh tro tàn - như một vết thương lòng nhức nhối - người  con trai đa tình vẫn còn tìm thấy “trăng trắng nét chữ thân thương” của người  yêu. Những nét chữ ấy như linh hồn của lá thư tình bị đốt cháy. Đó là di bút của một thiên diễm tình. Cũng như hoa  tàn, hoa rụng, nhưng hương hoa còn phảng phất trong không gian, lá thư bị đốt  cháy rồi mà chàng trai vẫn còn lưu luyến nhìn những “nét chữ thân thương” in rõ  trên mảnh tro tàn “trăng trắng”. Hình ảnh “Những tờ  giấy đen quăn cong lại” tương phản với “trăng trắng nét chữ thân thương” khẳng định một  tình yêu đẹp, trong sáng, thủy chung. Lá thư tuy bị đốt cháy nhưng tình yêu đôi  lứa vẫn sống mãi trong trái tim nhà thơ. “Tờ giấy  đen quăn cong lại” chỉ “thác là thể  phách” còn tình yêu là mãi mãi “hồn còn  tinh anh” như “trăng trắng nét chữ thân  thương” ấy.
 Ba dòng cuối của bài  thơ thể hiện nỗi đau đơn, thương tiếc của người con trai khi nhìn thấy mảnh tro  tàn. Phải yêu tha thiết lắm, trân trọng, quý trọng, luyến tiếc lá thư của người  yêu - kỉ vật thiêng liêng - thì tự đáy lòng mới cất lên lời thơ nghẹn ngào, như  thắt lòng lại như thế:
 “Lòng thắt lại. Tàn  thân yêu quý hỡi!
 Một niềm vui nghèo  cực xót xa
 Còn lại đời đời trên  ngực với ta”
     Trong hoàn cảnh  bị quản thúc cách biệt với thế giới bao la, phải xa cách bạn bè và người yêu thì  một lá thư tình nhận được, đúng là “niềm vui nghèo  nàn trong cuộc đời sầu bi” của mình. Lá thư bị đốt cháy rồi, nhà thơ  lẳng lặng, xót xa, đau đớn, buồn tủi. Nét chứ, giọng điệu, tâm tình và hình ảnh  người yêu “hãy còn lại mãi mãi… trên tấm ngực đau  thương” của người. Lá thư tình bị đốt cháy rồi nhưng tình yêu thủy  chung của giai nhân vẫn đằm thắm, thiết tha trong trái tim chàng trai đa  tình.
     Bài “Lá thư bị  đốt cháy” thuộc thể loại bi ca trong sáng tác của Puskin. Bài thơ thể hiện một  tình yêu sâu nặng, thiết tha, một tấm lòng quý trọng đến mức tôn thờ người yêu.  Đốt bức thư tình trong cảnh ngộ nhà thơ là một hành động vô cùng cao thượng.  Ngôn ngữ trong sáng. Câu cảm thán, câu hỏi tu từ liên kết nhau biểu đạt mãnh  liệt cảm xúc đau đớn, xót xa khi nhìn lá thư tình bị đốt cháy. Hình ảnh lá thư  bốc cháy trên “ngọn lửa tham” là một biểu tượng đầy ám ảnh.
     Xuân Diệu viết:  “Yêu là chết ở trong lòng một ít” - câu  thơ ấy giúp ta cảm nhận bài thơ tình “Lá thư bị đốt  cháy” của Puskin. 
 
 |  
  
 
		
		
		
 
  
 | 
 |