Xuất  xứ
       Tên thật là Nguyễn Thị Hinh, người làng Nghi Tàm, cạnh Hồ  Tây. Bà là vợ của ông Lưu Nghi, làm tri huyện Thanh Quan, tỉnh Thái Bình, nên  được người đời ái kính gọi là Bà huyện Thanh Quan. Bà từng được vua Minh Mệnh  vời vào Phú Xuân nhận nữ chức quan "Cung trung giáo tập"
     Bà còn để lại 6 bài thơ Nôm, đều viết theo thể thất ngôn  bát cú Đường luật: "Qua đèo ngang", "Chiều hôm nhớ nhà", "Thăng Long thành hoài  cổ", "Chùa Trấn Bắc", "Chơi đài Khán Xuân Trấn Võ", "Tức cảnh chiều thu".
 Ngôn ngữ thơ trang nhã, điêu luyện, âm điệu du dương réo rắt,  giọng thơ buồn mác, hoài cổ... là nét đặc sắc trong thơ Bà Huyện Thanh Quan.
Chủ  đề
       Bài thơ nói lên nỗi nhớ xưa thành Thăng Long và nỗi đau  buồn về cuộc đời tang thương.
Phân  tích
       1. Đề
     Như một lời than, nhẹ trách tạo hoá. Hí trường: sân khấu.  Tinh sương: Tinh là sao, sương là sương giá. Mấy tinh sương là mấy năm. Ông trời  gây chi thế, làm cho cuộc đời luôn biến đổi chẳng khác gì các lớp kịch, lớp này  tiếp sang lớp khác trên sân khấu. Cho đến nay, đã mấy năm thấm thoắt trôi nhanh  qua. Ý thơ sâu nắng buồn man mác về dòng chảy thời gian:
 "Tạo hoá gây chi cuộc hí trường
 Đến nay thấm thoắt mấy tinh  sương".
 
    2. Thực
     Kinh thành xưa - thuở vàng son nay còn đâu nữa! Chỉ còn  lại vẻ hoang tàn:
 "Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
 Nền cũ lâu đài bóng tịch  dương".
     Đường bàn cờ dọc ngang, xưa kia xe ngựa của ông hoàng bà  chúa đi lại rầm rập... nay chỉ còn lại "hồn thu thảo" - hồn cỏ thu tàn tạ. Lâu  đài xưa đã đổ nát, đã hoang tàn chỉ còn lại cái "nền cũ", vẻ tang thương hiện  lên dưới "bóng tịch dương" - bóng mặt trời chiều tối. Hai câu thơ đối nhau làm  nổi bật cái hoang phế, tàn tạ, thương tâm. "Lối xưa" với "nền cũ", "xe ngựa" với  "lâu đài", "hồn thu thảo" với "bóng tịch dương" đăng đối, hoà hợp; nỗi đau buồn  tang thương từ cảnh vật đã và đang thấm sâu vào lòng người. Đó là nỗi buồn hoài  cổ về kinh thành xưa.
 
    3. Luận
     Nỗi đau về cuộc đời tang thương biến đổi như chất chứa  dồn nén cảnh vật:
 "Đá vẫn trơ gan cùng tuế  nguyệt,
 Nước còn cau mặt với tang  thương".
 
    Đá và 
nước đã được nhân hoá, như hai chứng nhân lịch sử,  như thách thức (trơ gan) cùng năm tháng (tuế nguyệt). Như đau đớn giận hờn (cau  mặt) với sự đổi thay, với dâu bể (tang thương). Nghệ thuật chọn từ, phối thanh  (bằng trắc), phép đối - được nữ sĩ vận dụng rất điêu luyện. Các triều đại đã nối  tiếp hưng phế. Kinh thành xưa, đế đô nghìn năm xưa nay xuống cấp trở thành một  tỉnh dưới triều Nguyễn. Với nữ sĩ, ông cha đã mấy đời ăn lộc triều Lê, Thăng  Long lại còn chốn cũ quê nhà thì nỗi đau buồn không thể nào kể xiết. 
Đá và 
nước  được nói đến trong phần luận chính là nỗi lòng nhà thơ.
 
    4. Kết
     Hai câu kết nói về  dòng chảy thời gian và nỗi đoạn trường của Bà Huyện Thanh quan - nỗi buồn hoài  cổ:
 "Ngàn năm gương cũ soi kim cổ,
 Cảnh đấy người đây luống đoạn  trường."
     Gương cũ nghĩa bóng là lịch sử, là trang đời. Kim cổ là  hiện tại và quá khứ. Chuyện lịch sử qua hàng năm như soi vào quá khứ và hiện  tại. Nhìn "Cảnh đấy" - cảnh Thăng Long tang thương, cảnh "sóng lớp phế hưng" mà  "người đây" (nữ sĩ) đau đớn tưởng đứt ruột (luống đoạn trường). Đó là nỗi đau  của một con người, cũng là nỗi buồn của một lớp người khi nhớ về kinh thành xưa  một thời vang son, hoa lệ.
Tổng  kết
       "Thăng Long thành hoài cổ" được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Bài thơ tả cảnh  ngụ tình. Cảnh thì tang thương. Tình thì hoài cổ với nỗi đau đoạn trường. Có hồn  thu thảo, bóng tịch dương, đá và nước... như chứng nhân lịch sử, chia xẻ nỗi  đoạn trường với thi nhân.
 
    Thi liệu và từ ngữ  chọn lọc tinh tế. Một gam màu nhạt của bóng tịch dương phủ mờ bài thơ. Âm điệu  du dương, réo rắt như một tiếng than mà ta cảm nhận được. Các từ Hán Việt (chữ  in nghiêng) tạo nên cốt cách trang trọng, cổ kim. Điêu luyện nhất là phép đối,  nghệ thuật phối thanh và nhân hoá. Bài thơ
 mang vẻ đẹp trang nhã và  một nỗi buồn hoài cổ thấm thía. "Thăng Long thành  hoài cổ"- bài thơ để ta yêu, để ta nhớ mãi...