Tác giả và xuất xứ bài  thơ 
        1. Hoàng Cầm - nhà thơ Kinh Bắc, nổi tiếng tài hoa. Có nhiều kịch thơ  trước năm 1945: “Kiều Loan”; “Hận Nam Quan”, “Lên đường”. Một số tập thơ, tiêu  biểu nhất là “Mưa Thuận Thành”, “Về Kinh Bắc”… 
 Kháng chiến bùng nổ, Hoàng Cầm đi  bộ đội, làm công tác văn nghệ trong Quân đội. 
      2. Một đêm tháng 4/1948, tại Việt Bắc, được trực tiếp nghe tin giặc  đánh phá quê hương mình, Hoàng Cầm xúc động và ngay đêm ấy viết bài thơ “Bên kia  sông Đuống”, một trong những bài thơ hay nhất của ông. 
 
 
Chủ đề 
   Bài thơ thể hiện tình  yêu mến, thương nhớ và tự hào đối với quê  hương kinh Bắc; căm giận quân xâm lược  đang giày xéo quê hương; niềm tin vào một  ngày mai giải phóng, quê hương trở lại thanh bình. 
 
 
 
 
Những tình cảm đẹp về quê hương và những  câu thơ hay đáng nhớ 
        1. Hai câu thơ mở đầu với tiếng “em”  thần tình. Không xác định. Có thể là người thương trong nỗi nhớ đồng  vọng. Có thể là một nhân vật trữ tình xuất hiện mơ hồ trong tâm tưởng thi nhân?  Cũng có thể là sự phân thân của tác giả? “Em” xuất hiện, gợi nhớ gợi thương, để vỗ về an ủi  và chia xẻ nỗi đau buồn, thương nhớ. Cũng là để thi sĩ khơi nguồn cảm xúc đang  dào dạt trong lòng. Ý vị đậm đà chất thơ của bài “Bên kia sông Đuống” là ở tiếng  “em” và 2 câu thơ này: 
             “Em ơi buồn làm  chi 
             Anh đưa em về sông  Đuống” 
      2. Dòng sông tuổi thơ 
     Với Hoàng Cầm thì sông Đuống  là dòng sông thơ ấu với bao thương nhớ. Con sông đã gắn bó với tâm hồn nhà thơ.  Nhớ không nguôi “cát trắng phẳng lì”, nhớ nao nao lòng “Sông Đuống trôi đi - Một  dòng lấp lánh”; lấp lánh ánh bình minh, lấp lánh trăng sao soi vào gương sông  trong xanh. Nhớ về dáng hình, về thế đứng của nó trong lịch sử: “Nằm nghiêng  nghiêng trong kháng chiến trường kỳ”. Câu thơ mang hàm nghĩa thế đứng hiên ngang  của quê hương trong kháng chiến. 
 Đôi bờ dòng sông quê hương là một  màu “xanh xanh” bát ngát, là sắc “biêng biếc” của bãi mía, bờ dâu, của ngô  khoai. Bức tranh quê trù phú, giàu đẹp thật “nhớ tiếc” và “xót xa” vô cùng: 
             “Xanh xanh bãi mía bờ  dâu 
             Ngô khoai biêng  biếc 
             Đứng bên này sông sao  nhớ tiếc 
             Sao xót xa như rụng  bàn tay” 
      3. Quê hương có nền văn hóa lâu đời  đang bị quân thù giày xéo tàn phá. Nhà thơ sử dụng nghệ thuật tương  phản đối lập để làm nổi bật nỗi nhớ tiếc, nỗi xót xa, nỗi đau đớn căm hờn… Tương  phản xưa và nay, thuở bình  yên với từ ngày khủng khiếp,  đối lập giữa cảnh tưng bừng rộn rã với  bây giờ tan tác về đâu… 
     - Giặc Pháp cướp nước là kẻ  đã gây ra cảnh chém giết đau thương và điêu tàn khủng khiếp: 
             “Quê hương ta từ ngày  khủng khiếp 
             Giặc kéo lên ngùn  ngụt lửa hung tàn 
             Ruộng ta khô 
             Nhà ta cháy 
             Chó ngộ một đàn 
             Lưỡi dài lê sắc  máu…” 
     Xưa kia, vùng Thuận Thành,  bên kia sông Đuống, quê hương thân yêu của nhà thơ là một vùng giàu đẹp, có  hương lúa nếp “thơm nồng”, có làng tranh Đông Hồ nổi tiếng, sự kết tinh những  tinh hoa văn hóa cổ truyền giàu bản sắc dân tộc: 
             “Bên kia sông  Đuống 
             Quê hương ta lúa nếp  thơm nồng 
             Tranh Đông Hồ gà lợn  nét tươi trong 
             Màu dân tộc sáng bừng  trên giấy điệp” 
     Nay giặc kéo đến thì “Ruộng  ta khô – Nhà ta cháy”, điêu tàn, tan tác, đau thương. Nỗi tang tóc trùm lên, đè  nặng mọi kiếp người. Hạnh phúc và ước mơ bị giày xéo, bị chà đạp. Sự sống bị hủy  diệt đến kiệt cùng: 
             “Kiệt cùng ngõ thẳm  bờ hoang. 
             Mẹ con đàn lợn âm  dương 
             Chia lìa đôi ngả 
             Đám cưới chuột đang  tưng bừng rộn rã 
             Bây giờ tan tác về  đâu” 
     Tranh Đông Hồ trong thơ Hoàng  Cầm không chỉ là nét đẹp riêng rất tự hào của quê hương mình mà còn là một biểu  tượng của hạnh phúc, đoàn tụ, yên vui trong thanh bình, là nỗi đau trước sự tàn  phá, điêu tàn, tan tác của một miền văn hóa lâu đời thời máu lửa. 
     Thuận Thành, Kinh Bắc có núi  sông mĩ lệ, chùa chiền thắng cảnh với bao lễ hội tưng bừng mang theo bao huyền  thoại, sự tích thần kỳ, với những gác chuông, những tháp, những tượng Phật cổ  kính bao đời nay. Chùa Phật Tích, núi Thiên Thai, chùa Dâu, chùa Bút Tháp, tượng  Phật Quan Âm nghìn mắt nghìn tay. Ca dao: “Dù ai đi đẩu đi đâu - Cứ nhìn thấy  tháp Chùa Dâu mà về”. Tục ngữ: “Mồng bảy hội Khám, mồng tám hội Dâu, mồng chín  đâu đâu cũng về hội Gióng”. Phan Huy Chú đã viết trong “Lịch triều hiến chương  loại chí”: “Kinh Bắc có mạch núi cao chót vót, nhiều sông quanh vòng, là mạn  trên của nước ta… Mạch đất tốt tụ vào đấy nên càng nhiều chỗ có dấu tích đẹp,  tinh hoa hợp vào đấy nên sinh ra nhiều danh thần”. 
     Trong chiến tranh, đưa con ly  hương nhớ tiếc, xót xa quê hương: 
             “Ai về bên kia sông  Đuống 
             Cho ta gửi tấm the  đen 
             Mấy trăm năm thấp  thoáng mộng bình yên 
             Những hội hè đình  đám 
             Trên núi Thiên  Thai 
             Trong chua Bút  Tháp 
             Giữa huyện Lang  Tài 
             Gửi về may áo cho  ai 
             Chuông chùa văng vẳng  nay người ở đâu”… 
      4. Nhớ con người quê  hương 
     Nhớ sông Đuống, nhớ bãi mía  bờ dâu, nhớ hương lúa nếp thơm nồng… Nhớ mãi, nhớ nhiều những hội hè đình đám,  nhớ tranh gà lợn, nhớ giấy điệp. Nhớ núi Thiên Thai, nhớ chuông chùa ngân nga…  Nhớ “nàng môi cắn chỉ quết trầu”, nhớ cụ già “phơ phơ tóc trắng”, nhớ “những em  sột soạt quần nâu”. Nhớ bồi hồi “từng khuôn mặt búp sen - Những cô hàng xén răng  đen - Cười như mùa thu tỏa nắng”. Nhớ “những nàng dệt sợi – Đi bán lụa mầu”… nhớ  “Những người thợ nhuộm - Đồng Tỉnh, Huê Cầu…”. 
     Câu thơ “Bây giờ tan tác về  đâu” và “Bây giờ đi đâu về đâu” được nhấn đi nhấn lại nhiều lần, vừa gợi tả nỗi  đau thương tan tác, vừa thể hiện nỗi nhớ ứa máu tơi bời, nỗi xót xa và căm giận  lũ hung tàn cướp nước. 
 Những câu thơ nói về nỗi thương  nhớ đàn con thơ và mẹ già rất xúc động: 
     - Thương mẹ già: 
             “Mẹ ta lòng đói dạ  sầu 
             Đường trơn mưa lạnh  mái đầu bạc phơ” 
     - Thương đàn con thơ: 
             “Ngày tranh nhau một  bát cháo ngô 
             Đêm líu ríu chui gầm  giường tránh đạn…” 
      5. Quê hương chiến đấu 
     Cảnh đón bộ đội về làng rất  cảm động. Cuộc hội ngộ tình quân dân cũng là sự hồi sinh và niềm vui hạnh  phúc: 
             “Lửa đèn leo lét soi  tình mẹ, 
             Khuôn mặt bừng lên  như dựng trăng” 
     Cảnh giết giặc: Dao lóe giữa  chợ - Gậy lùa cuối thôn – Lúa chín vàng hoe, giặc mất hồn… Chúng mày phát điên –  Quay cuồng như xéo trên đống lửa”… 
     - Đồng quê quật khởi đứng  lên: 
             “Mà cánh đồng ta còn  chan chứa 
             Bao nhiêu nắng đẹp  mùa xuân 
             Gió đưa tiếng hát về  gần 
             Thợ cấy đánh giặc,  dân quân cày bừa” 
      6. Ngày hội non sông 
     Hoàng Cầm viết bài thơ “Bên  kia sông Đuống” vào năm 1948, lúc bấy giờ quê hương đất nước ta còn đầy bóng  giặc, chân trời thắng lợi còn xa vời. Phải gần 7 năm sau, ta mới có chiến thắng  Điện Biên Phủ. Thế mà thi sĩ đã nói đến ngày hội non  sông. Thơ kháng chiến hay nói đến “ngày mai”, một ngày mai thanh bình  ca hát. Phải đổ biết bao xương máu, phải có ngàn vạn chiến sĩ ngã xuống, nhân  dân ta mới có “ngày mai” như các nhà thơ đã viết: 
             “Phải bao máu thấm  trong lòng đất 
             Mới ánh hồng lên sắc  tự hào?” 
                                                              (Tố Hữu) 
     Vì vậy, ta có thể nói, phần  cuối bài “Bên kia sông Đuống” rất hay. Cảm hứng lãng mạn dào dạt. Nhân vật “em”  lại xuất hiện. Duyên dáng, trẻ trung, tình tứ. Niềm tin về một ngày mai tái hợp  sáng bừng vần thơ: 
             “Bao giờ về bên kia  sông Đuống 
             Anh lại tìm em 
             Em mặc yếm thắm 
             Em thắt lụa hồng 
             Em đi trẩy hội non  sông 
             Cười mê ánh  sáng muôn lòng xuân xanh”. 
 
 
Kết luận 
       Cách chúng ta gần ba  nghìn năm, nhà thơ Home (Hy Lạp) đã viết: “Không có  mảnh đất nào êm đềm bằng quê cha đất mẹ”. Bài thơ “Bên kia sông  Đuống” giúp ta cảm nhận sâu hơn ý tưởng của Hôme. Con sông Đuống và Thuận Thành,  Kinh Bắc là quê hương nhà thơ. Nhưng người đọc thấy vô cùng thân thiết gắn bó  với mình. Cái ý vị, cái hay của bài thơ là ở chỗ ấy. Câu thơ dào dạt theo cảm  xúc rất hồn nhiên mà giàu nhạc điệu. Nhạc điệu ngọt ngào của dân ca Quan họ. Sâu  lắng, thiết tha, bồi hồi là âm hưởng, là sắc điệu trữ tình đã thấm sâu vào hồn  ta tình yêu quê hương đất nước. “Bên kia sông Đuống”  xứng đáng là kiệt tác của thi ca Việt Nam hiện  đại. 
 
 |  
  
 
		
		
		
 
  
 | 
 |