Bài làm 
 
Buổi sơ khai văn học, bằng t-duy thần thoại, văn học nhìn tự nhiên nh-các vị thần linh, nhằm nhận 
thức, cải tạo, chinh phục cái tự nhiên này.  Tiếp đến, tự nhiên chính là thiên nhiên quê hương, đất 
nước : núi sông, đồng ruộng, bến nước, dòng sông, con trâu, cánh cò tươi đẹp, thân thương. Thiên 
nhiên này chủ yếu được thể hiện trong các thể loại trữ tình dân gian. 
Văn học trung đại cũng có một thiên nhiên hiện thực : 
 
-Mục đồng, sáo vẳng, trâu về hết 
 
Cò trắng từng đôi, liệng xuống  đồng (Trần Nhân Tông) 
 
-Trong tiếng cuốc kêu xuân đó muộn 
 
Đầy sân mưa bụi nở hoa xoan (Nguyễn Trói) 
 
-Dâu già lá rụng tằm vừa chín 
 
Lúa sớm bông thơm cua béo ghê 
 
(Nguyễn Trung Ngạn) 
 
Và một thiên nhiên tượng trưng cho lí tưởng đạo đức, thẩm mĩ của con người. Tùng, cúc, trúc mai là 
biểu thị hình ảnh con người thanh cao, cứng cỏi ; lâm tuyền (rừng, suối) là thú ẩn đật, tránh xa  
thế sự nhiều tục lụy, nhiễu nhương. 
Nhưng điểm chung lại là, dù thiên nhiên nào thì đó cũng  là tình yêu đất nước hoặc thể hiện sự 
tương thông giữa người và cảnh -về với tự nhiên để giữ khí tiết phẩm giá con người. Cho nên Nguyễn 
Trói mới ví mình nh-cây tùng, cây bách sương giá đó quen. Còn Nguyễn Trung Ngạn nơi đất khách, 
mường tượng cảnh dân dó quê nhà,  đó khẳng 
định : “ Nghe nói ở nhà nghèo vẫn tốt ; Dẫu vui đất khách chẳng bằng về”. 
 
Thiên nhiên trong văn học hiện đại tiếp tục là sự thể hiện tình yêu thiên nhiên, đất nước, quê 
hương. Biểu thị tình yêu cuộc sống, con người, đôi lứa. Giảm thiểu tính trực 
tả tách biệt, ước lệ thường thấy ở văn học dân gian, văn học trung đại để đóng vai như 
 
một nhân vật đời thường của văn học. Sự hoà điệu con người và thiên nhiên được tăng cường, chứ 
không chỉ là bối cảnh theo kiểu “người buồn, cảnh có vui đâu bao  gìơ”. Ta có thể dẫn ra những hình 
ảnh thiên nhiên thực, rất người của văn học hiện đại. Thời trước, Nguyễn Du tả  đôi mắt người con 
gái đẹp nh- nước mùa thu, núi mùa xuân (Làn thu thuỷ nét xuân sơn). Ông dùng thiên nhiên diễm lệ 
để so sánh, không cần biết đôi mắt ấy có thực hay không. Nhưng thơ hiện đại thì khác, cũng dùng 
hình ảnh thiên nhiên, nhưng phải rất thực và nhất là, rất nhiều rung động của thi nhân trong  đó. 
Xuân Diệu viết : Lá liễu dài nh-một nét mi. Với Tế Hanh “ Ai bảo mắt em nh-lá liễu ; Đó cắt lòng 
anh một nét dao”. Ngay nh-tả riêng thiên nhiên, thiên nhiên ấy cũng không mang giọt máu của nó mà 
mang giọt máu người : 
- Một tối bầu trời đắm sắc mây, 
 
Cây tìm nghiêng xuống đoá hoa gầy, Hoa nghiêng xuống cỏ, trong khi cỏ 
Nghiêng xuống làn rêu một tối đầy 
 
(Xuân Diệu) 
 
Rồi nh-rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành “ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng”. Ngay 
cái tàu lá chuối của Nam Cao cũng dóy lên đành đạch nh-là hứng tình, cũng nh-trăng nằm sóng xoói 
trên cành liễu ; Đợi gió đông về để lả lơi của Hàn Mặc Tử chứ không nh-cái tàu chuối “tình th-một 
bức phong còn kín” của Ngyễn Trói hay “Vừng trăng vằng vặc giữa trời ; Đinh ninh hai miệng một lời 
song song” của Nguyễn Du. 
Và tình yêu đối với cái thiên nhiên này, cũng là những tình yêu rất cá tính. Nồng thắm 
 
nhưng chân chất nh-Đoàn Văn Cừ, tiểu th-một chút nh-Anh Thơ, vương vui, buồn thế sự, nhân sinh 
nh-Huy Cận, đắm say, mạnh mẽ, vồ vập trong lành nh-Xuân Diệu. Dẫu ông có nói “Hỡi xuân hồng, ta 
muốn cắn vào ngươi!”. 
 
 |  
  
 
		
		
		
 
  
 | 
 |