Không đợi đến thế kỉ XX này con người mới có nhiều quan điểm về văn   chương mà ngay ở thế kỉ XiX, Nguyễn Văn Siêu, một danh sĩ thời Nguyễn đã   từng có ý kiến “Văn chương có loại đáng thờ và không đáng thờ. Loại   không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là   loại chuyên chú ở con người”. Song nói như Lê Quý Đôn “Văn chương là của   công thiên hạ, ý kiến của mỗi người mỗi khác, phân tích thì đuợc chứ   không nên chê mắng”. Cho nên, ý kiến của Nguyễn Văn Siêu đáng nên hiểu   lại và hiểu như thế nào cho đúng. 
Nguyễn Văn Siêu là một văn sĩ có tài, là bạn thân của Cao Bá Quát từng   được người đời tôn thờ là “Thần Siêu, Thánh Quát”. Quan niệm của ông   không phải là một quan niệm dễ dãi, điều quan trọng là ta phải hiểu cho   đúng ý nghĩa của câu nói “Văn chương chuyên chú ở văn chương”, “văn   chương chuyên chú ở con người” là như thế nào? 
“Văn chương chuyên chú ở văn chương” là loại văn chương chỉ chăm chút gò   câu đẽo chữ, tìm những chữ thật kêu, những điển tích cổ bí ẩn...nói   chung đấy là loại văn chương thuần tuý, là “văn” kkhông cần biết nội   dung, về tư tưởng, là loại văn chương thuần túy về hình thức. 
 
“Văn chuyên chú ở con người” chính là loại hình văn chương viết lên từ   cuộc sống của con người, hướng đến con người, “làm cho người gần người   hơn” (Đời thừa – Nam Cao). Ở đây là các yếu tố hình thức là sự phát tiết   anh hoa một cách tự nhiên, không cố ý. “Vọt lên từ suối là nước, từ  tim  người là máu” (Lỗ Tấn). 
Như vậy đại ý của câu nói của họ Nguyễn là : Văn chương có giá trị khi lấy đề tài cảm hứng từ con người và vì con người. 
Đầu tiên Nguyễn Văn Siêu nói “Văn chương có loại đáng thờ và loại không   đáng thờ”. Ông thẳng thắn phủ nhận loại văn chương không đem đến một  cái  gì tốt lành cho con người, văn chương như thế là loại “không đáng  thờ”  không đáng để đọc, để học hỏi. Văn chương là gì nếu không nói về  con  người, về nhân sinh? Văn chương đầu cần đến những người thợ mà văn   chương chỉ cần những khối óc của những “kĩ sư tâm hồn”. Văn chương mà   chỉ như những đoá hoa đẹp nhưng hữu sắc mà vô hương, thì nó đâu còn là   văn chương nữa. Quan niệm của Nguyễn Văn Siêu rất giống như Cao Bá Quát   đương thời: 
“Đáng phàn nàn cho ta đóng chửa mà gọt giũa câu văn 
Lải nhải nhai lại từng câu từng chữ 
Có khác chi con sâu đo muốn đo cả đất trời?” 
(Đề sát viện Bùi Công, yên đài anh ngữ khúc hậu) 
Không giao cảm với đời, văn chương tuôn ra ngọn bút không bắt đầu từ   lòng thương cảm sâu sắc mà vì đời thì chỉ là văn chương “một tấc đến   trời” , chỉ là một con sâu bé nhỏ hèn mọn ngạo mạn lố bịch có những ý   nghĩa ngông cuồng, múôn đo cả vũ trụ. Những lời văn viết ra bằng sự khổ   công gọt giũa trong bốn bức tường văn lạnh lẽo sẽ như một sinh vật tự   dưỡng, văn chương thiếu cái mở lòng ra đón những vang động cuộc đời,   thiếu sự hô hấp các dưỡng khí ngoài cuộc sống thì chỉ nhạt nhẽo, bủng   beo có chăng chỉ là những đồ lạ mắt ! Họ Cao cho đó là “đồ con trẻ” là   sản phẩm của một đôi tay khéo léo trong tâm hồn rỗng toếch và giả dối.   Anh đóng cửa phòng văn để viết những gì? Trong khi văn chương của anh là   kia, là bầu trời bạt ngàn gió mới, là nắng ban mai hồng tươi sắc ngói.   Anh đóng cửa để làm nghệ thuật, để đuổi bắt nghệ thuật khi nghệ thuật   của anh ở ngoài kia, ở ngoài thanh sắc trần gian đầy sôi động: Anh có   biết rằng : 
Bài thơ anh làm chỉ một nửa mà thôi 
Còn một nửa do mùa thu làm lấy 
(Chế Lan Viên) 
Văn chương chỉ biết lấy chủ nghĩa duy mĩ làm đích thì thử coi có đáng   thờ chăng? “Văn chương phải có quan hệ với đời” (Ngô Thi Sĩ ) và “ Cuộc   đời là nơi đi tới cũng là điểm khởi đầu của văn chương” (Tố Hữu). Nếu  L.  Tônxtôi vĩ đại bởi kiệt tác “Chiến tranh và hoà bình” thì cũng chính  là  kết quả của những lần ông xông pha nơi chiến trận tìm hiểu, ghi  chép.  Nếu “đóng cửa phòng văn hì hục viết thì Chiến tranh và hoà bình  nó có ra  đời không? Nếu không gắn bó, đau đời Nguuyễn Du có một Đoạn  trường tân  thanh không? 
Văn chương không thể là như thế, văn chương để người ta gần gũi và tôn   kính chứ không phải văn chương “hũ nút” mà người ta có thể “kính nhi   viễn chí”. Văn chương như vậy tuyệt đối là không đáng thờ. Khổng Tử đã   từng dạy học trò rằng “Từ đạt nhi dĩ hí” (nghĩa là : văn từ cần đạt mà   thôi, dễ hiểu mà thôi) điều quan trọng là cái “tâm” của người viết,   nghĩa là thực tế, phải sống trong cuộc đời. Quan niệm của Nguyễn Văn   Siêu gần giống như những văn học hiện thực Việt Nam vào giai đọn   1930-1945, lấy con người làm chủ thể sáng tạo, ngòi bút hướng vào con   người. 
Cuộc đời cũ vốn cuồn cuộn sóng gió bão táp đau khổ ngày đêm cứ đổ dồn   dập vào con người, vào nhân loại , là “lương tâm của mọi thời đại”   (Balzac). “Văn phải chở đạo”, phải làm cho con người tốt hơn tự hoàn   thiện hơn hay ít ra cũng bắt gặp mình trong đó thì đấy mới là “văn đáng   thờ”. 
 
Bùi Huy Bích, học trò của Lê Quý Đôn đã viết những ý kiến thật xác đáng:   “Người quân tử đời sau biết chăm học chỉ học hỏi để sửa mình rồi dần   dần trở thành người có văn chuơng ấy là người bậc nhất. Những người tập   làm văn chương rồi thấy đươc nghĩa lí trong đó, là bậc thứ ahi. Còn  hạng  bét thì chỉ biết có văn chuơng mà thôi”. 
 
Nói đến “Văn chương đáng thờ” Nguyễn Văn Siêu múôn nói đến cái giá trị   của văn chương. Là nghệ thuật đi sâu vào thế giới tâm hồn của con người   thì văn chương phải vì con người, vì cuộc sống con người, là chiếc đũa   thần gợi mở trong con người những cái đẹp cái hay mà triệt tiêu những  gì  xấu xa, có hại. Văn chương phải hướng đến Chân - thiện- mĩ phải khơi  ở  lòng người những tình cảm nhân ái, phải đem đến cho con người một  tia  nhìn mới. Có ai đã không từng thấy một thằng say nhâng nháo chửi  đời  nhưng có ai nhìn ra một anh Chí ao ứôc một thiên đường lương thiện  như  Nam Cao chưa? Có ai thấy đựơc thế giới tâm hồn của A. Q chưa? Và có  ai  đã nhìn thấy được cái tình yêu cao quý của một “thằng gù” cực kì  xấu xí  như Quazimôđô dành cho Extiranđa chưa? Đọc số phận của chàng  Quazimôđô  hay Chí Phèo ai mà khôgn nghe dâng lên một tí gì của xốn  xanh, của một  niềm thương yêu tủi hận như muốn nghẹn ngào...Và ta khẳng  định rằng :  Vâng, chỉ có những hình tượng xúc động lòng người mói là  văn chương, còn  thuần tuý dùng kĩ thuật chạm trổ cầu kì, làm xiếc ngôn  từ để người ta  xem như một trò giải trí, “đọc rồi quên ngay sau lúc  đọc” đấy chỉ là  “thợ” đàu với những con chữ, chứ không là nhà văn, nhà  thơ. Người ta  thường truyền giai thoại cụ Nguyễn Công Trứ đả kích lối  sống sáo rỗng.  Ông gặp các thầy cử trên đưòng khoa bảng, theo yêu cầu  của họ, ông ngồi  trên lưng bò vàng tủm tỉm đọc “Sông Nhị Hà sâu ba mươi  sáu thước. Chim  ăn chưa béo, cá không ăn bay về núi Hồng Sơn. Nhớ thủa  xưa vua Thần Nông  giá sắt, vua ĐẾ Thuấn canh vấn. Cùng quăng, cùgn  quẳng, cùng quằng,  tổng bất ngoại bò vàng chi liếm lá”. Một mớ ngôn từ  vô cùng như thế mà  ai cũng cho văn hay ý lạ. Cái tủm tỉm của Tồn Chất  thâm thuý hay thay. 
Ý kiến của Nguyễn Văn Siêu đúng song nếu so sánh với quan điểm nghệ   thuật của Thạch Lam - Thế hệ hậu bối của “Thần Siêu” – thì có lẽ nhà văn   trẻ này phát biểu toàn diện hơn : “Đối với tôi văn chương không phải  là  một cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên, trái lại,văn   chương là một thứ khi giới thanh cao và đắc lực mà chúgn ta có, để vừa   tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho  lòng  người đọc đựơc thêm trong sạch và phong phú hơn” 
 
Không phải ngẫu nhiên hay vô tình mà cụ Nguyễn Du viết: 
Thiện căn ở tại lòng ta 
Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài 
(Truyện Kiều) 
 
Rõ ràng, thi sĩ Tiên Điền không hề phủ nhận chữ “tài”. Nhưng nếu coi văn   học là một cái cây thì chữ “tài” chỉ là lá cành mà chữ “tâm” kia mới  là  gốc là ngọn. Cho nên nếu “văn chương” mà chỉ đơn thuần “chuyên chú ở   con người” mà không “chuyên chú ở văn chương” thì liệu có còn giá trị   nữa không? Còn là một bộ môn nghệ thuật nữa chăng? 
Có văn chương nào lại không lấy con người làm đối tượng. M.Gorki đã   khẳng định : “Văn học là nhân loại”, ta phải hiểu rằng không thể tách   rời văn chương và con người cũng như tách rời nội dung và hình thức biểu   đạt của nó. Đành rằng người ta nói “tốt gỗ hơn tốt nước sơn” nhưng nếu   cả gỗ và nước sơn đề tốt thì sao? Lẽ dĩ nhiên là tốt hơn ! Cho nên nếu   cái đẹp đích thực thì có chăng là ở thế giới của con người, và vì vậy   văn chương chân chính ( nghĩa là văn chương của cái đẹp ) là văn chương   luôn đi đến con người và thế giới con người. Văn chương là nghệ thuật,   tức là nó đi tìm kiếm, sáng tạo cái đẹp nhưng không thể có một cái đẹp   thuần tuý lung linh nào ngoài cái thế giới con người. Đề tài cái đẹp  văn  chương không cần đâu xa lạ mà ở ngay những giản đơn bình thường  nhất.  Thực ra, văn chương chuyên chú ở văn chương và “văn chương chuyên  chú ở  con người” là hai mặt của một tờ giấy trắng. “Văn chương chuyên  chú ở  con người” nhưng không hề quay lưng với cái Đẹp, và ngược lại. Đỗ  Phủ đã  từng viết “Ngữ bất kinh nhân, tử bất hưu” ngôn ngữ phải làm cho  người  ta kính phục nhưng cái chứa đựng trong ngôn ngữ kia là gì mới là  quan  trọng. Một tác phẩm có giá trị thì không bao giờ là một tác phẩm  thô  vụng về ý thức: Khi anh nhìn thấy được những gì ẩn chứa sâu xa nhất  của  cuộc sống, anh đã có một cái tâm vĩ đại thì ắt hản anh không phải  là một  con người tầm thường, mà anh biết làm thế nào để nhân laọi này  hiểu  anh, hiểu cái “tâm” của anh - Nguyễn Du để lại một Đoạn trường tân  thanh  tràn ngập lòng nhân đạo, nhưng ông cũng để lại một công trình  nghệ  thuật ngôn từ rất đặc sắc phong phú mà nếu thiếu chúng thì nội  dung  truyện Kiều chẳng làm say mê bao thế hệ con người. 
Ở trên ta bàn đến cái khả năng có thể có sự kết hợp giữa “văn chương   chuyên chú ở văn chương” và “văn chương chuyên chú ở con người”.Nhưng   nếu có một ai đó đưa bạn một sản phẩm và yêu cầu lựa chọn “Đây cái này   là tốt gỗ” và đưa một sản phẩm khác bảo là tốt nước sơn, nếu biết giá   trị của một cái hào nhoáng nhưng không ra gì và một cái giản dị nhưng vĩ   đại bạn sẽ chọn bên nào? 
Câu hỏi đó có lẽ sẽ là thừa. Cho nên, nếu văn chương chuyên chú ở con   người thì dễ có giá trị hơn, nhưng “văn chương chuyên chú ở văn chương”   thì chưa hẳn đã hay vì người ta chỉ đọc “đọc rồi quên ngay sau khi  đọc”. 
 
Cái “tâm” là nguồn nuôi dưỡng để phát huy cái tài. Còn dù có tài đến đâu   nếu dửng dưng trước đồng loại đến số phận con người thì cũng khó làm   nên một ánh văn chương có giá trị. Vì tâm hồn con người không chỉ tiếp   thu cái đẹp mà còn lại cái “nhân” rộng lớn, cái “tình” muôn thuở. 
 
Cho nên, dẫu là gì đi nữa thì “chất” ở bên trong vẫn là yếu tố quyết   định. Chữ “tâm” là động lực là yếu tố cần thiết nhất. Lịch sử văn học đã   có ghi những hiện tượng có những người không hề có ý định làm văn, làm   thơ nhưng lại là những người nghệ sĩ lớn, còn có những nhà văn nàh thơ   trọn đời cũng không viết được một câi thơ có giá trị nào dù rất kiên   tâm, rất dày công đẽo gọt ngôn từ. 
 
 |  
  
 
		
		
		
 
  
 | 
 |