Nguyễn  Bính thuộc thế hệ các nhà  Thơ mới. Nhưng nếu phần lớn các thi sĩ cùng  thời chịu ảnh hưởng của thơ  phương Tây, thì Nguyễn Bính lại tìm về với  điệu thơ dân tộc. 
 
 “Lỡ bước sang ngang” là tác phẩm được chú ye hơn cả trong sự nghiệp   sáng tác của Nguyễn Bính trước cách mạng. Bằng lối ví von mộc mạc duyên   dáng, mang phong vị ca dao: tác phẩm này đã đem đến cho người đọc những   hình ảnh thân thương của quê hương đất nước và một tình người đằm thắm   thiết tha. Bài thơ “Tương tư” được in lần đầu trong tập thơ “Lỡ bước   sang ngang”. Đây là bài thơ khá tiêu biểu cho hồn thơ Nguyễn Bính nói   chung và cho lập “Lỡ bước sang ngang” nói riêng. 
 
 Tương tư là trai gái nhớ nhau. Dĩ nhiên đây là nỗi niềm u ẩn của những   người yêu nhau phải xa nhau. “Tương tư” là một thi đề quen thuộc trong   cả văn chương dân gian lẫn văn chương bác học. Trước Nguyễn Bính đã có   những thi sĩ lừng danh như Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ… viết về đề tài   này. Và ngay trong làng “Thơ mới” đã có bài “Tương tư chiều” nổi tiếng   của Xuân Diệu. Tất cả những điều đó là những thử thách to lớn đối với   những cây bút đi sau. Nguyễn Bính đã vượt qua được thử thách đó, mang   đến cho đề tài này phần nội dung mới và cách nói mới. 
 
 Nỗi niềm “Tương tư” của Nguyễn Bính được thể hiện bằng những sắc thái   muôn thuở của chuyện trai gái yêu nhau mà phải xa nhau. Có nhớ nhung, có   trách móc, có giận hờn, và dĩ nhiên cả khắc khoải đợi chờ…Nỗi niềm   tương tư ở đây chưa đến độ cháy bóng mãnh liệt như trong thơ Xuân Diệu   (“Bữa ni lạnh, mạt trời đi ngủ - Anh nhớ em, em hỡi anh nhớ em!”), nhưng   cũng thật tha thiết chân thành: 
 
          “Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông 
 
          Một người chín nhớ mười mong một người 
 
          Gío mưa là bệnh của giời 
 
          Tương tư là bện của tôi yêu nàng”. 
 
 Thì ra, nếu gió mưa là “căn bệnh”, là sự vận động thường xuyên của   thiên nhiên thì nhớ mong là căn bệnh cố hữu diễn ra như một quy luật tất   yếu của những người đa tình, đa cảm, dường như có mặt ở trên đời này   chỉ để thương thầm nhớ vụng. Giữa chàng trai – nhân vật trữ tình – và   bạn gái dường như chẳng có cách trở gì về cả không gian lẫn thời gian?   Họ ở chung một làng, chỉ cách nhau có “một đầu đình”. Cô gái có thể   thuận lợi đủ điều càng khiến cho nhân vật trữ tình càng thêm băn khoăn   thêm hờn dỗi. Nhưng nào có ai đâu mà chờ với đợi. Cũng như một số bài   thơ khác của Nguyễn Bính thường nói đến mối tình đơn phương (như trong   bài Hoa và rượu. Người phương nên lời trách móc, hờn dỗi kia rõ ràng trở   thành vu vơ. Thực ra, những lời nói đó chính là sự tự bộc lộ tâm hồn   nhạy cảm, khao khát yêu thương của chính nhà thơ. Khi cuộc đời còn những   mối tình đơn phương, khi còn những con tim ít tuân theo những quy tắc   rạch ròi; thì người đọc cũng không mấy ai nõ trách Nguyễn Bính đã  “tương  tư” một cách vu vơ… 
 
 Đặc biệt nỗi niềm chờ mong đáng trân trọng ấy đã đựoc nhà thơ thể hiện   một cách mới mẻ. Trước hết là hình ảnh cái “tôi” có nhu cầu giãi bày,   phơi trải được Nguyễn Bính diễn tả một cách trực diện không chút vòng   vo: 
 
          “Gió mưa là bện của giời, 
 
          Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”. 
 
 Ngoài ra còn phải kể đến việc tác giả đã thành công khi đưa vào lời ăn   tiếng nói của người nhà quê trong cuộc sống thường nhật. Những lời ăn   tiếng nói ấy xuất hiện một cách tự nhiên mộc mạc, tạo nên không khí dân   dã, quê mùa cho toàn bài thơ: 
 
          “Hai thôn chung lại một làng, 
 
          Có sao bên ấy chẳng sang bên này? 
 
          Nhưng đây cách một đầu đình, 
 
          Có xa xôi mấy mà tình xa xôi?” 
 
 Đưa vào thơ lời ăn tiếng nói của đời thường, Nguyễn Bính cũng như những   nhà Thơ mới đã gặt hái được một mùa hoa trái bội thu. Thơ của họ trở   nên gần gũi với người đọc và nó góp phần phát hiện ra những cái mới mẻ   của con người và tạo vật, mà trước đây ít nhiều thi ca bác học chưa làm   được. 
 
 Như vậy, nội dung “Tương tư” có tính chất muôn thuở đã được nhà thơ   Nguyễn Bính thể hiện bằng một lời nói hiện dại, mang dấu của thời đại,   phản ánh một mảng tâm hồn của lớp thanh niên tiểu tư sản những năm 30   của thế kỷ này. 
 
 Song giá trị cơ bản của bài thơ không chỉ ở chỗ tác giả diễn tả khá mới   mẻ cái “tôi” thiết tha chân thành, khao khát yêu đương; mà điêu chủ  yếu  nó gợi lên được cái “hồn xưa đất nước”, theo cách nói của nhà phê  bình  Hoài Thanh. “Hồn xưa đất nước” không nằm riêng ở chi tiết nào, câu  thơ  nào mà toát ra từ toàn bộ bài thơ qua hệ thống hình ảnh, lời ví  von,  cũng như giọng điệu chung. 
 
 Vốn sinh ra ở một nước nông nghiệp, cho dù đã từng “dan díu với kính   thành” nói theo Nguyễn Bính, mấy ai trong số chúng ta không có trong   mình một đôi kỷ niệm về một làng quê Việt Nam truyền thống? Tương tư có   khả năng khơi gợi trong đáy sâu tâm hồn người đọc. Trong khi các nhà  thơ  cùng thời Xuân Diệu hay Lưu Trọng Lư chịu ảnh hưởng sâu đậm thơ  phương  Tây và chính điều đó đem lại cho phong trào Thơ mới những nét  đặc sắc,  thì Nguyễn Bính lại thành công khi ông tìm về với điệu thơ dân  tộc, với  làng quê Việt Nam thân thuộc, với những hình ảnh gần gũi tự  ngàn xưa:  những con bướm trắng, bướm vàng vẽ vòng trên các vườn hoa cải  hoa vàng,  những vườn bưởi vườn cam ngào ngạt hương thơm, ven đê là  ruộng dâu bãi  đay, bên giậu mùng tơi, cạnh giếng khơi là những cô thôn  nữ đôn hậu,  quanh năm dệt lụa chăn tằm, trẩy hội, xem chèo,… với trang  phục cổ  truyền: áo đồng lầm, quần lĩnh tía, yếm lụa sồi… Ở bài thơ  “Tương tư”  dường như có một sự kết nối giữa hệ thống hình ảnh đã trở  thành ước lệ  đối với làng quê Việt Nam. Ở đó có thôn Đoài, thôn Đông,  có con đò và  bến nước, có hàng cau và giàn trầu… Ở đó còn có nơi sinh  thành và nuôi  dưỡng lối thơ lục bát và Nguyễn Bính đã sử dụng nhuần  nhuyễn lối thơ  này, cách ví von mộc mạc, thực chất là những ẩn dụ: bến –  đò, hoa -  bướm, trầu – cau, thôn Đông – thôn Đoài… Hệ thống hình ảnh,  lối thơ  truyền thống với cách ví von ấy đã đánh thức con người nhà quê  lâu nay  ẩn náu trong lòng độc giả, làm cho họ bồi hồi xao xuyến về một  làng quê  Việt Nam, một dân tộc Việt Nam gần gũi và thiêng liêng. 
 
 Không những thế, “Hồn xưa đất nước” còn được biểu hiện ngay trong lối   suy nghĩ gắn với trời đất, cỏ cây quê hương. Ngày xưa, năm tháng trôi   qua đã được ông cha ta miêu tả qua sự biến đổi của cây lá: 
 
          “Nửa năm hơi tiếng vừa quen 
 
          Sân ngô cành biếc đã chén lá vàng”. 
 
          (“Truyện Kiều” - Nguyễn Du) 
 
 Nhân vật trữ tình trong bài thơ này cũng đo đếm thời gian dựa vào chính   sự thay đổi của cảnh sắc thiên nhiên. Điều này được thể hiện bằng  những  câu thơ dân dã, mộc mạc: 
 
          “Ngày qua ngày lại qua ngày 
 
          Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng”. 
 
 Đồng thời thiên nhiên còn là chuẩn mực để nhân vật trữ tình nhớ nhung,   suy tưởng: “Gió mưa là bệnh của giời – Tương tư là bệnh của tôi yêu   nàng”. 
 
 Do sống hoà hợp gắn bó với cảnh sắc thiên nhiên, nên trong ca dao – dân   ca, trai gái quê ta không chỉ mượn Thuyền và Bến, Sen - Hồ, Mận – Đào…   để giãi bày tình yêu một cách kín đáo vừa duyên dáng, vừa tinh tế.  Trong  bài “Tương tư”, Nguyễn Bính sử dụng triệt để các cách nói ấy mang  lại  hiệu quả nghệ thuật đáng kể. Nếu như ở khổ thơ thứ hai còn có câu  dường  như lạc hệ thốn, thiếu sự dung dị(“Hoa khuê các, “bướm giang hồ  gặp  nhau”) thì khổ thơ cuối cùng chính là sự kết tinh nghệ thuật của  toàn  bài. Ở khổ thơ này “hồn xưa đất nước” toát lên từ cách dùng hình  ảnh,  cách bộc lộ tình cảm kín đáo, mộc mạc của tác giả. Thay vì lối  diễn đạt  trực tiếp ở phần đầu đến khổ thơ cuối, Nguyễn Bính dùng lối  diễn đạt  gián tiếp rất tinh tế, phảng phất chất hương đồng cỏ nội của  ca dao  thuần khiết: 
 
          “Nhà em có một giàn giầu 
 
          Nhà tôi có một hàng cau liên phòng 
 
          Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông 
 
          Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?” 
 
 Trong phong trào Thơ mới, nhiều thi sĩ như Đoàn Văn Cừ, Anh Thơ, Bàng   Bá Lân… miêu tả được những bức tranh quê tươi đẹp. Nhưng có lẽ chỉ mình   Nguyễn Bính nói đúng được cái hồn quê Việt Nam. Ngày nay ở nông thôn   Việt Nam phong cảnh cũng như hồn người đã đổi khác rất nhiều. Thanh niên   nam nữ thường thích điệu bộ bò hơn là áo tứ thân, chít khăn mỏ quạ, xe   Cub đã thay cho ngựa tía võng điều… 
 
 Tuy vậy, phần nào bài thơ “Tương tư” trên đây của Nguyễn Bính vẫn như   một dấu tích tâm hồn dân tộc, góp phần cho tâm hồn người đọc thêm phong   phú và tươi sáng. Đấy chính là sự đóng góp đặc sắc của nhà thơ trong  bài  thơ này nói riêng và trong phần nhiều bài thơ của Nguyễn Bính trước   Cách mạng nói chung, đấy cũng là lý do khiến nhiều người yêu thích thơ   ông. 
 
 |  
  
 
		
		
		
 
  
 | 
 |