Văn học viết  Việt Nam chính  thức ra đời cùng với nền độc lập của nước ta (từ thế kỉ  X), do những trí  thức tài hoa sáng tạo nên, là một bước nhảy vọt của  tiến trình lịch sử  văn học dân tộc. Văn học viết Việt Nam chủ yếu là  văn học của dân tộc  Kinh, nó đóng vai trò chủ đạo và thể hiện những nét  chính của diện mạo  nền văn học dân tộc. Hai chủ đề lớn trong văn  học Việt Nam là vận  mệnh dân tộc và vận mệnh nhân dân đã xuyên suốt  chiều dài lịch sử của  văn học dân tộc. Tuy nhiên tùy theo tình  hình lịch sử - xã hội  mà có lúc chủ đề này nổi lên hàng đầu chủ đề kia  lùi xuống làm hậu thuẫn  và ngược lại. Về khuynh hướng vận động, văn học  viết Việt Nam vận động  theo ba khuynh hướng lớn: dân tộc hóa , dân chủ  hóa và hiện đại hóa. 
 
 
Từ 1858 đến cuối thế kỉ XIX, sự vận động của hai chủ đề có phần phức   tạp. Nhà nước phong kiến phạm nhiều sai lầm, Thực dân Pháp cướp nước,   đời sống nhân dân lâm vào cùng khốn. Văn chương theo chủ đề dân tộc và   chủ đề vận mệnh nhân dân song song xuất hiện hoặc vừa chống giặc vừa cổ   vũ những tấm gương anh hùng xả thân cứu nước vừa phê phán triều đình  bất  lực, hàng giặc vừa nêu mọi đau khổ của dân trước họa xâm lăng (Thơ  văn  Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị, Nguyễn Thông, Nguyễn Quang Bích ,  Phạm  Văn Nghị, Nguyễn Khuyến,…và thơ văn khuyết danh). Trong đó nổi  nhất là  các sáng tác của nhà thơ mù yêu nước Nguyễn Đình Chiểu, đặc  biệt là các  bài văn tế. Với thể tài văn tế, tác phẩm của Nguyễn Đình  Chiểu đạt đến  sự cân đối giữa tư tưởng tình cảm cao sâu với tài năng  nghệ thuật bậc  thầy. Cũng trong thể tài văn tế, nổi bật lên một  hiện tượng có  tính chất đột khởi thể hiện rõ nét nhất khuynh hướng dân  chủ hóa trong  phạm trù văn học trung đại: Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc.  
 
 
 
1- Trước hết, cần làm sáng tỏ khái niệm dân chủ hóa trong tiến trình lịch sử văn học. Theo GS. Nguyễn Đình Chú : “Dân   chủ hóa văn học có nghĩa là làm sao cho nền văn học ngày một thật sự  là  của toàn dân chứ không phải của riêng một thiểu số trong xã hội; làm   sao để ngày một đông đảo nhân dân có điều kiện thưởng thức kể cả tham   gia sáng tạo văn học; làm sao để ngày một cuộc sống tình cảm tâm hồn,   khát vọng , lời ăn tiếng nói…của nhân dân được thể hiện , phản ánh chân   thực hơn trong văn học; làm sao để ngày một hình ảnh nhân dân có vị trí   lớn hơn trong tác phẩm văn học.” [2,8] 
 
Tuy nhiên khái niệm nhân dân ở đây cần được hiểu một cách đúng đắn có   tính chất lịch sử cụ thể và biện chứng chứ không sa vào một quan niệm   giai cấp có phần thô thiển , máy móc. Nhân dân là tất cả người dân trong   một nước, cố nhiên trong xã hội có giai cấp, có giàu nghèo như một thứ   định mệnh thì việc coi trọng tầng lớp lao động nghèo khổ là cần thiết.   Vì thế con đường dân chủ hóa có liên quan mật thiết với bản chất chính   trị - xã hội của các thời kì lịch sử của đất nước. 
 
2- Trong thời kì văn học trung đại, vấn đề dân chủ hóa tự nó có những   nội dung riêng. Đó là việc xây dựng và phát triển quan niệm nhân dân của   văn học dưới chế độ phong kiến mang bản chất là phi dân chủ, có ý thức   hệ phong kiến , từng đặt chủ nghĩa tôn quân lên hàng đầu, có dòng văn   học bác học, hàn lâm , quý phái chiếm vị trí chủ lực, chính thống , xa   cách với cuộc sống nhân dân. 
 
Con đường dân chủ hóa ở đây chính là con đường cưỡng lại, tách ra khỏi   tình trạng ít nhiều có tính chất phi dân chủ đó để tìm một hướng đi khác   cho văn học phù hợp với nhu cầu thẩm mĩ và cần thiết đối với cuộc sống   của đại đa số nhân dân, đặc biệt là trong những thời đại nhân dân trỗi   dậy hào hùng. Mặt khác nó cũng được sự nâng đỡ của những yếu tố tiến  bộ  trong các học thuyết, kể cả tôn giáo ở thời trung đại như chủ nghĩa  nhân  ái, tinh thần dân chủ của đạo Phật, chủ trương thân dân, bảo dân  trong  các trường phái Nho giáo, chủ trương sống gần gũi với tự nhiên,  thuận  theo tự nhiên của Lão Trang.. 
 
Vấn đề dân chủ hoá trong văn học trung đại được thể hiện trên cả hai   phương diện nội dung lẫn hình thức ở mọi yếu tố của văn học: quan điểm   sáng tác, cảm hứng đề tài , chủ đề, thể loại , nhân vật, ngôn ngữ, bút   pháp nghệ thuật … mà gốc rễ của mọi vấn đề chính là thái độ, tình cảm và   khả năng nhận thức tiến bộ , đúng đắn của nhà văn đối với nhân dân 
 
3- Dân chủ hoá trong văn học là một quá trình gắn bó hữu cơ với khuynh   hướng dân tộc hoá, hiện đại hoá. Bốn mươi năm cuối thế kỉ XIX cục diện   chính trị - xã hội Việt Nam “ khổ nhục nhưng vĩ đại” là mảnh đất đã đơm   kết nên sự hoà quyện gắn bó ấy một cách điển hình. Trong khuynh hướng dân chủ hoá văn học, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu là một thành công có tính chất đột xuất. 
 
3.1- Giai đoạn này, một mặt triều đình nhà Nguyễn phạm nhiều sai lầm,   thực dân Pháp cướp nước, đời sống nhân dân lâm vào cùng khốn. Nguyễn   Đình Chiểu sống ngay trên mảnh đất Miền Nam đang bị thực dân nuốt dần   từng mảng, là người chịu cảnh “ tan nhà”, mất đất, mất quê trong những   năm đầu chiến cuộc nổ ra và có vinh dự lịch sử là người giương lá cờ   tiên phong của dòng văn học yêu nước, thân dân chống Pháp xâm lược qua   hàng loạt sáng tác: Văn tế nghĩa sĩ Cần giuộc, Văn tế nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh, Văn tế Trương Định, Thơ điếu Trương Định, thơ điếu Phan Tòng, truyện thơ Ngư Tiều y thuật vấn đáp và hàng loạt các bài thơ Đường luật. 
 
Và cũng trong sự nghiệp sáng tác dồi dào, quý báu ấy, Văn tế nghĩa sĩ   Cần Giuộc nổi lên như một kiệt tác bất hủ không chỉ ở chỗ “ Với bài   văn tế này, lần đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc có một tượng đài   sừng sững về người nông dân tương xứng với phẩm chất vốn có ngoài đời   của họ. Ở đây là người nông dân nghĩa quân chống giặc, cứu nước”   [8;31] mà còn ở chỗ với bài văn tế này, lời ăn tiếng nói của nhân dân   như ùa vào trang văn làm tăng đáng kể tính chất hiện thực và tính trữ   tình của tác phẩm. 
 
 
 
3.2-Trước Nguyễn Đình Chiểu, văn chương Việt Nam đã từng là một thứ khí   giới tinh thần sắc bén chống xâm lăng, với thơ Thần ( Lí Thường Kiệt),   Hịch Tướng sĩ ( Trần Quốc Tuấn), Bach Đằng giang phú ( Trương Hán  Siêu),  Quân trung từ mệnh, Bình Ngô đại cáo ( Nguyễn Trãi),….Nguyễn  Đình Chiểu  đã kế thừa tinh thần quý báu ấy của tiền nhân và nâng nó lên  một tầm  cao mới trên con đường dân chủ hoá. 
 
Bài thơ thần Nam quốc sơn hà từng được coi là bản tuyên ngôn độc lập đầu   tiên của dân tộc, là tiếng nói chân lí lớn lao , vĩnh hằng , thiêng   liêng nhất của dân tộc. Dù vậy, trong đó chủ nghĩa tôn quân phong kiến   vẫn là hệ quy chiếu, là hòn đá tảng để xác định chủ quyền quốc gia dân   tộc. Ở đây , hai khái niệm “ quốc “ và “ đế” đồng nhất với nhau. Khái   niệm “dân” chưa có vị trí độc lập mà còn ẩn chìm trong hai khái niệm   “quốc” , “đế”. Thời đại đó, chưa cho phép Lí Thường Kiệt nghĩ khác ,   viết khác. Chân lí “ Nam quốc sơn hà Nam đế cư” cũng chưa là chân lí của   con người mà là chân lí của trời, được “ rành rành phận định tại sách trời”.   Bởi chưng, chân lí của con người chỉ có được khi tuyệt đại đa số nhân   dân có quyền làm chủ vận mệnh lịch sử của quốc gia dân tộc. 
 
Thời Trần ngút trời “hào khí Đông A” nhưng ở trung tâm điểm của các sáng   tác văn học cũng chỉ là những tráng sĩ, tướng lĩnh, Tiết chế của ba   quân. 
 
“ Hoành sóc giang sơn cáp kỉ thâu 
 
Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu 
 
Nam nhi vị liễu công danh trái 
 
Tu thính nhân gian chuyện Vũ Hầu” 
 
( Phạm Ngũ Lão) 
 
Áng thiên cổ hùng văn đời Trần là Hịch tướng sĩ văn của Tiết chế Quốc công Hưng Đạo đại vương cho thấy bên cạnh quan điểm dân tộc rực sáng, quan điểm nhân dân cũng đã bộc lộ qua thái độ thiết tha gắn bó của vị chủ tướng với chư tì tướng để chống giặc , giữ nước nhưng ở đây cũng bộc lộ ý thức đẳng cấp   phản ánh rõ nét quan hệ kinh tế đại điền trang của thời Trần. Trần  Hưng  Đạo “bảo” các tướng sĩ trong tư thế như chủ nói với gia thuộc: “ Nay các ngươi muốn ăn ta cho ăn, muốn mặc ta cho mặc; muốn đi bộ thì ta cho ngựa , muốn đi thuỷ thì ta cho thuyền…” . Chủ nhân vẫn là người tiên ngộ , tiên giác,   đóng vai trò khuyên nhủ, rèn cặp, giáo huấn thuộc hạ. Trần Hưng Đạo đã   không viện đến mệnh trời, được ghi nhận như một bước tiến về tư tưởng   nhưng ông cũng không thể vượt khỏi những quy định ngặt nghèo của điều   kiện kinh tế lịch sử thời đại nhà Trần cuối thế kỉ XIII. 
 
Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi, nhân dân Đại Việt giành lại quyền độc   lập tự chủ sau hai mươi năm Minh thuộc, văn học trung đại cũng ghi  thêm  một mốc son chói lọi trong sự vọt tiến của lập trường nhân dân, tư   tưởng dân chủ bằng Bình Ngô đại cáo được Nguyễn Trãi thay lời Lê Lợi để viết.  
 
Lê Lợi từ vai trò người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đại thắng , trở   thành ông vua của triều đại mới, đọc lời đại cáo với cương vị là nhân   vật trung tâm của tác phẩm nhưng trong nội dung bài cáo thì quan điểm   nhân dân đã được đặt lên hàng đầu. Trong bài cáo, lí tưởng chiến đấu là   vì dân:“ Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân” . Nỗi căm thù quân xâm lược là vì dân: “ Nướng   dân đen trên ngọn lửa hung tàn; vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”,“   Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập,thuồng luồng/   Kẻ bị đưa vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng thiêng nước độc”. Đặc biệt lực lượng làm nên sức mạnh chiến đấu trời long đất lở là dân: “ Giơ gậy làm cờ manh lệ bốn phương tụ tập”. Cuộc kháng chiến toàn dân chống giặc Minh xâm lược quả tình đã nâng quan điểm nhân dân của Nguyễn Trãi lên một tầm cao chưa từng có trong lịch sử trước đó.   Bài học lịch sử xương máu này được Nguyễn Trãi rút ra từ thất bại của   nhà Hồ, năm 1407- họ Hồ chỉ lo đúc súng, đóng thuyền chiến , giăng lưới   sắt , đóng cọc trên sông để nghênh địch chứ không thể cố kết lòng dân   thành một khối vững bền. Chính Tả tướng quốc Hồ Nguyên Trừng, con trai   trưởng của Hồ Quý Ly, đã nói rõ nhược điểm ấy : “ Tôi không sợ đánh chỉ sợ lòng dân không theo”.   Cuộc kháng chiến của hai vua Hậu Trần nổ ra và thất bại mấy năm sau   thất bại của nhà Hồ cũng đã để lại những bài học lịch sử sâu sắc về vai   trò của dân trong sự nghiệp cứu nước, giữ nước. 
 
Thế nhưng trong bài Bình Ngô đại cáo, vai trò “ lo trước thiên hạ” thực hiện “mệnh trời” vẫn là của lãnh tụ nghĩa quân: 
 
“ Ngẫm thù lớn há độ trời chung 
 
Căm giặc nước thề không cùng sống 
 
(…) Quên ăn vì giận , sách lược thao suy xét đã tinh 
 
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kĩ 
 
(…) Tự ta ta phải dốc lòng vội vã hơn cứu người chế đuối 
 
(…) Trời thử lòng trao cho mệnh lớn 
 
Ta gắng chí khắc phục gian nan” 
 
Người dân chưa có vai trò tự giác, chủ động dấy lên cuộc khởi nghĩa. 
 
Từ thế kỉ XVI trở đi, nền độc lập dân tộc không còn trực tiếp bị đe doạ   căng thẳng, nhiệm vụ dựng nước với nội dung chăm lo đời sống cho nhân   dân trở nên nổi trội. Đặc biệt là giai đoạn nửa cuối thế kỉ XVIII- nửa   đầu thế kỉ XIX, về mặt lịch sử đây là thế kỉ nông dân khởi nghĩa mà đỉnh   cao là khởi nghĩa nông dân Tây Sơn, văn học trung đại đã tiến thêm một   bước mới trong quan điểm nhân dân. Văn chương đi vào chủ đề vận mệnh   nhân dân, phê phán tố cáo, lên án áp bức bóc lột, của giai cấp thống   trị, vẽ ra bức tranh hài hước về bước đường suy sụp không sức gì cứu vãn   của chế độ phong kiến , theo sát vận mệnh nhân dân , cảm thông với vô   vàn nỗi khổ, ngợi ca phẩm chất đạo đức , trí tuệ, tài năng của họ, phát   hiện ra con người cá nhân đối lập với con người của quan hệ phong kiến   Nho giáo, đặt ra một cách trực diện vấn đề quyền sống của con người (   Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm, Truyền kì mạn lục ; Chinh phụ ngâm, Cung oán   ngâm, Hoa Tiên , Truyện Kiều, Hoàng Lê nhất thống chí, thơ Hồ Xuân  Hương  , Cao Bá Quát…) 
 
Với Truyện Kiều của Nguyễn Du, quan điểm nhân dân không tồn tại dưới   dạng phát ngôn trực tiếp mà đã hoà tan vào cốt truyện và hình tượng,  vào  thân phận nhân vật trong đó nổi lên một tình thương bao la đối với  mọi  kiếp người đau khổ, đặc biệt là người phụ nữ. Trong tiếng kêu  đau  thương ngút trời của Nguyễn Du cho “ phận đàn bà” – Đau đớn thay  phận  đàn bà- hẳn là không phân biệt đẳng cấp, chủng tộc. Ở đây quan  điểm nhân  dân đã vươn tới quan điểm nhân loại. 
 
 
 
3.3- Trong các tác giả văn học lớn thời trung đại, Nguyễn Đình Chiểu có   vinh dự là người có nhiều sáng tác giá trị vắt ngang qua mốc thời gian   1858. 
 
 
 
3.3.1-Trước 1858, tác phẩm Lục Vân Tiên xứng đáng là khúc ca chiến thắng   của những người kiên quyết vì chính nghĩa mà chiến đấu. Tác phẩm có  tầm  ảnh hưởng sâu rộng ở Miền Nam, và cả vùng trung- nam Trung bộ chẳng  kém  tầm ảnh hưởng của Truyện Kiều đối với cả nước. Xin đơn cử ngay gia  đình  của người viết bài này ( ở Bình Định) để hình dung mức độ “phổ  cập” của  Lục Vân Tiên: Bà ngoại (sinh 1904) không hề biết chữ nhưng  thuộc lòng  Lục Vân Tiên từ đầu chí cuối, mẹ (sinh 1934) học lớp ba thời  kháng chiến  chống Pháp cũng thuộc lòng truyện trước khi biết chữ, cậu  (sinh 1927)  học sơ học yếu lược trước năm 1945 thuộc lòng cả Lục Vân  Tiên và Truyện  Kiều. Bản thân (sinh 1961) từng nghe bà , cậu , mẹ đọc  Lục Vân Tiên và  cũng thuộc được nhiều đoạn trước khi cắp sách tới  trường. Sự thật là từ  vùng trung Trung bộ trở vô, giới có học vấn mới  thuộc Truyện Kiều và  đương nhiên cũng thuộc cả Lục Vân Tiên, giới ít  học hoặc thất học vẫn có  nhiều người thuộc Lục Vân Tiên, say Lục Vân  Tiên. 
 
Người đọc xưa nay yêu quý Lục Vân Tiên vì chàng là người con hiếu thảo,   người thanh niên có lí tưởng cao cả sẵn sàng quên hết mọi lợi ích riêng   tư, dũng cảm đánh cướp Phong Lai, cứu dân, đánh giặc Ô Qua, cứu nước;   yêu quý Kiều Nguyệt Nga vì nàng có tấm lòng thuỷ chung son sắt, nghĩa   tình trọn vẹn; yêu quý Hớn Minh vì Hớn Minh không sợ quyền uy, thẳng tay   trừng trị công tử con quan địa phương cậy thế làm càn, ức hiếp dân nữ.   Ai không thích cái giọng kể lại thật thản nhiên theo đúng tinh thần “   kiến nghĩa bất vi vô dũng dã” của Hớn Minh về việc chàng ra tay trừng   trị Đặng Sinh: 
 
‘ Giàu sang ỷ thói dọc ngang 
 
 
Gặp con gái tốt cưỡng gian không nghì 
 
 
Tôi bèn nổi giận một khi 
 
 
Vật chàng xuống đó bẻ đi một giò”. 
 
 
Người đọc yêu quý Vương Tử Trực vì chàng đã biết mắng cha con Võ Công một cách quang minh chính đại : “ Nói sao mà chẳng hổ thầm 
 
Người ta há phải loại cầm thú sao”. 
 
Người đọc yêu quý ông Quán , ông Ngư, ông Tiều, tiểu đồng, những nhân   vật chưa kịp có tên riêng nhưng nghĩa khí , nghĩa tình, đạo đức không   chê vào đâu được: 
 
“ Quán rằng :“ Ghét việc tầm phào 
 
Ghét cay ghét đắng quét vào tận tâm 
 
Ghét đời Kiệt, Trụ mê dâm 
 
Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hang 
 
Ghét đời U, Lệ đa đoan 
 
Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần” 
 
 
 
3.3.2- Giặc đánh chiếm quê hương, thơ văn Nguyễn Đình Chiểu chuyển từ đề   tài đạo đức sang đề tài đánh giặc Tây, cứu nước. Ông đứng trên lập   trường nhân dân tố cáo tội ác của giặc Tây xâm lược: 
 
“ Phạt cho đến người hèn , kẻ khó , thâu của quay treo. Tội chẳng tha con nít , đàn bà đốt nhà bắt vật. 
 
Kể mười mấy năm trời khốn khổ, bị khảo , bị tù , bị đày , bị giết, trẻ già nào xiết kể tên. 
 
Đem ba tấc hơii mọn bỏ liều, hoặc sông , hoặc biển , hoặc núi , hoặc rừng, quen lạ thảy đều rơi nước mắt” 
 
( Văn tế nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh) 
 
Ông nhiệt liệt biểu dương anh hùng Trương Định vì dân , theo dân đánh giặc: 
 
“Bỡi lòng chúng chẳng nghe thiên tử chiếu , đón ngăn mấy dặm mã tiền, 
 
Theo bụng dân phải chịu tướng quân phù, gánh vác một vai khổn ngoại” 
 
( Văn tế Trương Định) 
 
 
 
 
 
3.3.3 Đặc biệt trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, lần đầu tiên trong lịch   sử văn học trung đại hình tượng những người nông dân mến nghĩa tự  nguyện  kết thành đội ngũ đứng lên đánh giặc trở thành nhân vật trung  tâm của  văn học: 
 
 
 
Mở đầu bài văn tế-‘Súng  giặc đất rền.Lòng  dân trời tỏ”- tác giả đã khái quát đầy đủ hai mặt của  một biến cố chính  trị lớn: Cuộc xâm lăng ào ạt bằng vũ khí tối tân của  thực dân Pháp và ý  chí chống xâm lăng của nhân dân hiện lên sáng ngời-  
 
 
 
Ở phần thích thực, bài văn đã dẫn dắt người đọc đi sâu vào lôgich tâm tư- hành động của những nghĩa sĩ- nông dân 
 
Nguồn gốc chính tông của  họ là những nông  dân nghèo khổ “côi cút làm ăn”, cần cù lao động “chỉ  biết ruộng trâu ở  trong làng bộ”, chất phác hiền lành: 
 
“Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm; 
 
Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó:  
 
Khi Pháp xâm lược, họ lo  âu, từng ngày ,  từng giờ chờ đợi ứng phó của triều đình “ trông tin quan  như trời hạn  trông mưa”. Nhưng họ đã uổng công và thất vọng. Cuộc sống  của họ bị cái  mùi hôi tanh của kẻ thù làm ô nhiễm, họ căm ghét chúng.  Tâm lí chờ  đợi, căm ghét của họ được miêu tả chân thực bằng lời văn giản  dị, những  cách ví von quen thuộc . Kẻ thù ngày càng lộ diện, nghênh  ngang (bòng  bong che trắng lốp; ống khói chạy đen sì), sự căm ghét của  người nông  dân đã nâng lên thành thái độ căm thù mãnh liệt, sẵn sàng  bùng nổ ra  thành hành động ( muốn tới ăn gan, muốn ra cắn cổ. 
 
Họ thật sự thấy cần phải  xả thân đánh giặc  giữ nước khi nhận thức được giá trị lớn lao của chủ  quyền, bề dày của  nền văn hiến dân tộc đang bị kẻ thù giày xéo: 
 
“ Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu 
 
Hai vầng nhật nguyệt chĩi lồ đâu dung lũ treo dê bán chĩ” 
 
Tác giả đã dùng những từ  ngữ Hán Việt, điển  tích điển cố, những hình ảnh tráng lệ, thiêng liêng  khi viết về lòng  ngưỡng vọng, tự hào sâu xa của người nông dân – nghĩa  sĩ đối với Tổ  quốc mình . Đó là nét đẹp đẽ cảm động nhất ở họ. 
 
Họ tự nguyện trở thành  nghĩa binh đánh giặc  với khí thế hào sảng và quyết tâm cao ( đoạn kình,  bộ hổ). Họ nhất định  gánh lấy trách nhiệm bảo vệ đất nước đầy cao cả và  khó khăn. Như vậy  trước thái độ bạc nhược của triều đình, trước sự lấn  lướt của kẻ thù,  chính ý thức dân tộc, tình cảm yêu nước, lòng quả cảm  đã thôi thúc  người nông dân trở thành những nghĩa sĩ  
 
Họ đánh giặc bằng tất cả  các vật dụng trong  cuộc sống thường ngày, lấy dụng cụ tầm thường ( hoả  mai đánh bằng rơm  con cúi, gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay,..) đương  đầu với vũ khí tối  tân của giặc . Ở đây cái vĩ đại đã hoà vào cái bình  thường. 
 
Nguyễn Đình Chiểu đã dốc  toàn bộ tâm huyết  để đặc tả người nghĩa quân trong phút công đồn. Đó là  giờ phút giao  tranh quyết liệt . Dung lượng câu văn được mở rộng, tiết  tấu gấp gáp  mạnh mẽ -do hàng loạt yếu tố trùng lặp, hàng loạt động từ  mạnh, câu văn  gối hạc với các vế câu ngắn nhằm truyền thần không khí  căng thẳng ,  quyết liệt của trận đánh. Nghĩa quân hoàn toàn làm chủ trận  địa, tả  xung hữu đột, san bằng mọi thành luỹ, át cả tiếng súng, tiếng  tàu  thiếc, tàu đồng của Phú lãng sa : 
 
“ Chi nhọc quan quản gióng  trống kì trống  giục, đạp rào lướt tới coi giặc cũng như không; nào sợ  thằng tây bắn  đạn nhỏ , đạn to xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có  
 
Kẻ đâm ngang, người chém ngược làm cho mã tà , ma ní hồn kinh, bọn hè trước lũ ó sau trối kệ tàu thiếc , tàu đồng súng nổ”. 
 
Hoài Thanh nhận xét: “ Có  ai ngờ trong khuôn  khổ một thể văn xưa mà lại có được một bức tranh công  đồn như vậy, rất  hiện thực, rất sinh động , và ngất trời tráng khí”  [3;456] . Thật vậy,  chỉ qua mười mấy câu văn, Nguyễn Đình Chiểu đã dựng lên một tượng đài bi tráng về người nông dân đánh giặc cứu nước trong buổi đầu giặc Pháp xâm lăng đất nước ta.  
 
 
 
“Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” hàm chứa những tình cảm đẹp, tư tưởng rất tiến bộ của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu. 
 
 
 
Có thể nói, phần ai vãn có  lời văn vừa xót  xa, vừa an ủi , vừa tri ân đi đôi với sự căm giận khôn  nguôi đối với  quân xâm lược. Tất cả là tiếng khóc , tiếng khóc của chính  tác giả đã  đành. Còn có cả tiếng khóc của hàng vạn , hàng triệu nhân  dân “ già  trẻ”. Khóc cho người nghĩa sĩ hy sinh đã đành mà còn khóc cho  quê hương  , đất nước, dân tộc đang cần người dũng cảm, đồng thời nói hết  nỗi  trắc ẩn của mình về số phận nhân dân trong cơn tao loạn và trong sự   nghiệp cứu nước. Đúng là “ một tiếng khóc lớn, một tiếng khóc có tầm   vóc thời đại , có tính chất sử thi” [9; 28]  
 
 
 
Phần kết, với nghệ thuật  trữ tình Đồ Chiểu  đã viết nên những câu văn đạt đến độ toàn bích về nỗi  đau mất mát trong  chiến tranh vệ quốc xưa nay: 
 
Đau đớn bấy! Mẹ già ngồi khóc trẻ; ngọn đèn khuya leo lét trong lều 
 
Não nùng thay! Vợ yếu chạy tìm chồng; cơn bóng xế dật dờ trước ngõ 
 
Nhưng trái lại tác giả đã  giúp người dân  Việt phát hiện ra từ trong mất mát cái sức mạnh của sự  sống, cái ý  nghĩa cao đẹp của một thái độ sống tích cực, một quan niệm  về sống và  chết: chết vinh còn hơn sống nhục. Không thể  “theo quân  tà đạo”, “ở lính mã tà” đánh thuê, làm bia đỡ đạn, sống cuộc  đời bán  nước cầu vinh “chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ”.  Trái  lại, phải sống anh dũng, chết vẻ vang: “Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia…”.Cái   biện chứng từ cái chết sang sự sống, từ bi thương đau đớn đến tự hào ở   đoạn văn này quả đã tạo được một sự tâm đắc rất mực chân thành ở độc   giả. Có thể nói “ từ khoảnh khắc của cái chết bài Văn tế đã mở ra cái   vĩnh cửu của sinh thành- vì cái chết đang gắn với cuộc vận động của dân   tộc. 
 
Về  mặt nghệ  thuật, Văn tế sử dụng một thứ ngôn ngữ bình dị như chính đời  sống, cách  nói, cách nghĩ và cách cảm của nhân dân miền Nam.  
   
            Trong  văn chương  trung đại chưa bao giờ, những công việc làm, vật dụng thô sơ ,  mộc mạc  của nhà nông lại đi vài thơ văn ồ ạt trở thành những chi tiết  đắt,  những điểm nhấn nghệ thuật trong khắc hoạ nhân vật như thế: “cuốc,  cày ,  bừa , cấy, ruộng , trâu, manh áo vải, ngọn tầm vông, rơm con cúi,  lưỡi  dao phay, tấc đất ngọn rau, bát cơm manh áo,..” 
            Cũng  chưa bao giờ  cách cảm , cách nghĩ của nông dân được thể hiện một cách  trực tiếp mà  giàu dư vị như thế: ‘ danh nổi tợ phao, tiếng vang như mõ;  trời hạn  trông mưa, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ; muốn tới ăn gan,  muốn ra  cắn cổ, treo dê bán chó;  mắc mớ chi ông cha nó, chia rượu lạt ,  gặm  bánh mì,…” 
            Chính  nhờ cách sử  dụng ngôn ngữ trực tiếp từ đời sống và cách cảm , cách nghĩ  quen thuộc ,  bình dị của người nông dân Nam Bộ ở nửa sau thế kỉ XIX như  thế, bài  văn tế , nhất là phần thích thực,đã thoát khỏi khuôn sáo ước lệ  để từng  mảng hiện thực của đời sống và nội tâm nhân vật  trực tiếp đi  vào  trang văn với tất cả vẻ chân phác của nó. Đây cũng là con đường tăng   cường tính nhân dân , tính hiện thực cho văn chương trong một giai đoạn   có tính chất giáp ranh giữa hai phạm trù văn học trung đại và hiện đại.   Giáo sư Trần Văn Giàu thật chí lí khi viết: “ Một hoạ sĩ thời nay đọc   Nguyễn Đình Chiểu vừa có đủ sự kích thích về tinh thần vừa có đủ chi tiết tiêu biểu để vẽ thành bức tranh công đồn rất hiện thực của nghĩa binh Cần Giuộc”    [7, 234] 
   
            Nhìn ở  một tầm độ  sâu hơn, nhằm cắt nghĩa lí giải sức chinh phục của hình  tượng nghĩa sĩ  nông dân, ta không thể không nói đến nghệ thuật điển hình hoá của tác giả nhằm tạo ra một sức mạnh nhận thức tổng hợp, trực cảm thẩm mĩ mạnh mẽ 
   
            Bài  Văn tế thật sự  đã đặt nhân vật trong tình huống có vấn đề. Đó là quan hệ  giữa sống và  chết, giữa người dân và dân tộc, giữa tình thương, những  mối ràng buộc  nhân sinh và yêu cầu phải xả thân, giữa truyền thống anh  hùng và truyền  thống nhân đạo. Bài Văn tế đã giải quyết xuất sắc bài  toán nghệ thuật  đó, đã bằng nghệ thuật ngôn từ mà chinh phục được độc  giả trước một vấn  đề phức tạp của tâm hồn. 
   
            Sự  kiện 21 ( có sách  nói là 15) nghĩa quân hy sinh trong trận đánh úp đồn  Pháp ở Cần Giuộc  trên đất Gia Định vào đêm 14 tháng 12 năm 1861 là một  sự thật lịch sử  quật cường. Nhưng  hình tượng trong bài Văn tế có sức  tác động sâu hơn  một sự thật lịch sử. Đó là do cái tài và cái tâm của  tác giả. Hình  tượng nghệ thuật của Đồ Chiểu có khả năng nhắn nhủ người  ta, đánh thức  tâm hồn người ta về những điều rộng hơn và sâu sắc hơn bản  thân sự thật  lịch sử vì ông đã đúc kết được một hệ thống rất có sức gợi  cảm những  chi tiết về số phận , hành động của người dân cày trong lịch  sử ở hai  cực biến động của nó: khi làm ăn côi cút vô danh; lúc tự nhận  trách  nhiệm lớn lao trên vũ đài lịch sử dân tộc. Cái mới lạ , cái tầm mở  rộng  nhận thức đột ngột đó đối với hiện thực chính là ở chỗ nhà thơ đã  chỉ  ra sự thống nhất hai chiều tồn tại kia của nhân vật thành một thực  thể  điển hình: cái tâm sự băn khoăn hàng giờ , hàng khắc “ trông tin  quan  như trời hạn trông mưa” cùng với cái thân phận “ côi cút làm ăn”  hai  sương một nắng đã hoà với nhau làm một, từ tâm lí ghét cỏ dại luôn   thường trực để rồi khi kẻ thù ló dạng họ liền có cái để so sánh  “ghét   thói mọi như nhà nông ghét cỏ”. Lòng yêu nước âm thầm ấy đã nhập vào cái   âm thầm của cuộc đời lao động cần cù , nghèo khó kéo dài bất tận trong   lịch sử phong kiến để rồi thỉnh thoảng lại bùng lên “ kết thành những   làn sóng vô cùng mạnh mẽ” khi Tổ quốc lâm nguy. Đó chính là đóng góp  lớn  của Đồ Chiểu, là cái gốc tạo nên sức rung động, cảm kích sâu xa ở  người  đọc trước hình tượng nghệ thuật do ông xây dựng. 
   
            Bằng  hình tượng  nghĩa binh Cần Giuộc, Đồ Chiểu đã phát hiện được cái chân lí  về sức  mạnh cơ bản hằng tồn, đầy tính sáng tạo về đặc thù của dân tộc  Việt  Nam. Lôgich nghệ thuật của Văn tế…là đã tạo ra cái độ căng quyết  liệt  giữa thử thách lớn của tình huống và sự “trắng tay” của con người  về  những tiền đề vật chất cần thiết cho cuộc chiến đấu. Bảo bối của họ   không gì khác hơn là một ý chí không gì lay chuyển nổi để vượt tình thế.   Họ tự trang bị, vũ trang cho họ bằng bất cứ cái gì họ có trên cơ sở  một  truyền thống tự lực tự cường đã ăn sâu vào máu thịt và tâm khảm của  họ  từ bao đời cha truyền con nối trên đất nước đầy thiên tai , địch  hoạ  này. Bằng cách đó , Nguyễn Đình Chiểu đã đặt chân vào con đường lớn  để  đi về hiện đại trên lập trường nhân dân , dân chủ . 
   
            Cuối  cùng là sự kết  hợp hài hoà giữa bút pháp hiện thực và bút pháp trữ tình  nhằm nêu bật  cái gan chịu trách nhiệm, cái đạo thuỷ chung sâu thẳm vào  người dân như  một sức năng động nối liền nghĩa vụ hào hiệp với tình  thương, nối cái  mất mát tổn thất với cái trường tồn đã dẫn đến một quy  mô cảm xúc, một  tầm thước biểu cảm rất rộng trong không gian và thời  gian lịch sử,  trong số phận và tâm khảm con người: 
  ‘ Tấc đất , ngọn rau ơn Chúa, tài bồi cho nước nhà ta; bát cơm manh áo ở đời mắc mớ chi ông cha nó” 
  “Chùa Tông Thạnh năm canh ưng đóng lạnh, tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm…” 
  “ Sống đánh giặc thác cũng đánh giặc linh hồn theo giúp cơ binh,muôn kiếp nguyện được trả thù kia..” 
   
            Hình  tượng người  nông dân trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là một phát hiện  mới mẻ và có  giá trị nhận thức, giáo dục và thẩm mĩ. Đó thật ra là những  con người  vốn có từ lâu đời, nhưng cũng chỉ thật sự nổi bật lên vào  giai đoạn  lịch sử này, khi người anh hùng phong kiến đang tự nó rút khỏi  vũ đài  chính trị. Dưới ngòi bút Nguyễn Đình Chiểu, đó là những con  người rất  xưa nhưng cũng rất mới. Họ như những vỉa trầm tích ngàn đời và  vụt  “vươn vai Phù Đổng” trong bước ngoặt lịch sử đặc biệt của dân tộc  ta.  Nhà thơ mù yêu nước xứ Đồng Nai đã dốc trọn cả cuộc đời phấn đấu cho  lí  tưởng của mình để đi tìm, dựng tượng đài cho con người ấy. Và trong   lịch sử văn học nửa cuối thế kỉ XIX cũng chỉ có một mình ông tìm được,   dựng được. Phát hiện của ông không trái với nhãn giới của Nho gia nhưng   ông đã di xa hơn điểm dừng lại của tất cả các tác giả Nho gia truyền   thống. Hơn ai hết, Nguyễn Đình Chiểu xúc động sâu sắc trước thân phận   những con người bình thường, trướng những phẩm chất  cao đẹp của họ   trong một giai đoạn lịch sử “nước sôi lửa bỏng”. Chính ở điểm đó ông đã   tạo được bước đột biến trong sự phát triển văn học dân tộc. 
     
            Tóm  lại, với Văn tế  nghĩa sĩ Cần Giuộc, lần đầu tiên trong nền văn học dân  tộc, Nguyễn Đình  Chiểu đã khắc hoạ và ca ngợi người nông dân Nam Bộ như  những anh hùng  thời đại đã tự giác sống, chiến đấu và hy sinh vì đại  nghĩa dân tộc, là  người gánh vác sự nghiệp cứu nước trên đôi vai trong  khi triều đình  phong kiến bạc nhược luôn chủ hoà , chủ bại, vận mệnh dân  tộc bị đặt  trong thế “ nghìn cân treo sợi tóc”. Giáo sư Trần Văn Giàu,  người đã  từng nhiều năm sống , chiến đấu trên mảnh đất Nam bộ,  nhiều  năm nghiền  ngẫm văn chương, tư tưởng của Nguyễn Đình Chiểu đã khẳng  định: “ Cụ  là văn sĩ đầu tiên ca ngợi lòng yêu  nước, chí quật cường của bần nông,  một trình độ và tính chất yêu nước  quật cường đặc biệt cao quý của  những người dân lân , dân ấp (…) Thật  suốt hàng ngàn năm sáng tác cho  đến đấy và còn lâu về sau nữa, chưa có  một thi nhân nào rung cảm chân  thành và sâu sắc với dân cày như thầy  Nguyễn Đình Chiểu của chúng ta,  chưa có ai như Nguyễn Đình Chiểu đắp nên  tượng lộng lẫy của người nông  dân anh hùng cứu nước” [7, 234]. Nhìn rộng ra trong bối cảnh toàn cầu cũng như trong khu vực, nhà nghiên cứu Trần Ngọc Vương nhận xét: “ Trong   tương lai khi bộ phận văn học đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, chủ   nghĩa đế quốc trên phạm vi toàn thế giới được khảo sát một cách khoa   học, Nguyễn Đình Chiểu chắc chắn sẽ dược ghi nhận như một trong những   tên tuổi có cống hiến nổi bật” [3 ; 311 ] 
   
            Với  những gì đã đề  cập bên trên chúng ta có thể dễ dàng đồng ý với của GS  Nguyễn Đình Chú-  trong bài viết Những khuynh hướng lớn trong tiến trình  vận động của  lich sử văn học Việt Nam- khi ông nhận định: “ Riêng   bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu thì đáng được xem   là một hiện tượng đột khởi mới lạ về quan điểm nhân dân” [2;   8], là tác phẩm tiêu biểu bậc nhất cho khuynh hướng dân chủ hoá trong   chủ đề yêu nước chống xâm lăng xuyên suốt 10 thế kỉ văn học trung đại   Việt Nam. 
 
 |  
  
 
		
		
		
 
  
 | 
 |