Năm nay chúng ta kỷ niệm 172 năm ngày sinh của Nguyễn  Đình Chiểu  với tất cà sự ngưỡng mộ và tấm lòng tôn kính tài năng đặc đã  và sự cống  hiển to lớn của nhà thơ cho sự phát triển nền văn hóa nước  nhà trong  suốt mấy thập kỷ kể từ giữa thế kỷ XIX Nguyễn Đình Chiểu có  được sự  ngưỡng mộ và tôn kính ấy của bao nhiêu thế hệ kể cả thể hệ ngày  nay và  thế hệ đã qua là do di sản thơ văn của ông để lại cho đời sau  và những  giá trị tinh thần tỏa ra từ những áng thơ văn đó.  
 
Chính những giá trị cao đẹp ấy là kết quả của cả một cuộc đời lao động   trí óc nghiêm túc, say mê, tràn đầy nghi lực và không biết mỏi của   Nguyễn Đình Chiểu. Không có một cuộc đời lao động như vậy, thì không thể   nói gì đến những thành công trên địa hạt văn học và tư tưởng. Nhưng  một  trong những bí quyết tạo nên những thành công của Nguyễn Đình  Chiểu,  một nguồn gốc chủ yếu của những giá trị cao đẹp trong di sản thơ  văn của  ông, chính là lòng thương dân vô hạn và sự gắn bó suốt đời với  nhân dân  của Nguyễn Đình Chiểu, nhất là quan điểm và lập trường của  nhân dân khi  ông xem xét và giải quyết mọi vấn đề. Nhân dân đã đùm bọc,  cưu mang  giúp đỡ ông lúc hoạn nạn, đồng thời đã tạo ra những điều kiện  và môi  trường thích hợp cho tài nàng và trí tuệ của ông nảy nở. Đối  với ông,  nhân dân lao động như một bà mẹ thần kỳ, chẳng những đem lại  cho ông một  cuộc sống mãnh liệt, hữu ích và đầy ý nghĩa, mà cỏn chắp  cho ông đôi  cánh đủ sức bay tới những đỉnh cao của trí thức và nghệ  thuật. Đó là một  sự thật hiển nhiên mà ta có thể dễ dàng nhận thấy qua  mấy biểu hiện sau  đây trong tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu: 
 
I.  
 
Từ truyện thơ Lục Vân Tiên 
 
Trong truyện Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu đã dựng lên cả một xã hội   trong đó những nhân vật chính diện tiêu biểu là Lục Vân Tiên và Kiều   Nguyệt Nga đã tượng trưng cho tài năng, trí tuệ, nhân phẩm của con   người. Đó là những con người học rộng, tài cao. Tuy mỗi người mỗi vẻ,   mỗi nét mặt khác nhau, nhưng họ đều là những người "cương trực", "khẳng   khái", "vị tha" và “trọng nghĩa hiệp". Họ sẵn sàng cứu giúp người khác   không sợ khó khăn nguy hiểm và nêu cao cái nghĩa khí “giữa đường gặp sự   bất bình chẳng tha". Họ kiên trì đứng về lẽ phải mà suy nghĩ và hành   động. Những đặc tính cao đẹp đó cững chính là những đức tính cơ bản của   con người Việt Nam nói chung và của nhân dân Nam Bộ nói riêng. Những  đặc  tính đó đã hình thành và củng cố trên trường kỳ lịch sử nhất là  trong  quá trình dân tộc ta khai phá và mở mang mảnh đất miền Nam của Tổ  quốc,  cho nên nó đặc biệt thể hiện rõ nét ở nhân dân Nam Bộ. Những đặc  tính đó  không những đã được phản ánh trong văn học dân gian mà còn  được khẳng  định trong sử sách. 
 
Ở những nhân vật chính diện của truyện Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu   đã miêu tả phẩm chất đẹp đẽ của con người biểu hiện trong các mối quan   hệ cha con, vợ chồng, bè bạn, thầy trò... Họ đã ăn ở, giao tiếp và đối   xử với nhau thật là trọn tình vẹn nghĩa, thủy chung. Tinh nghĩa và lòng   thủy chung đó chính là tình cảm đạo đức hồn nhiên trong sáng và lành   mạnh vốn nảy sinh từ trong cuộc sống giản dị của nhân dân lao động.  
 
Hơn nữa trong cuộc đời thực, quần chúng lao động còn có một cách nhìn   lạc quan ở tương lai, một niềm tin vào sự thắng lợi của lẽ phải, của tài   năng và nhân phẩm con người. Lẽ dĩ nhiên dưới chế độ phong kiến, quân   chúng lao động không tránh khỏi những giới hạn của lịch sử, cho nên cái   nhìn lạc quan và niềm tin của họ thường gần với quan niệm ác giả ác  báo,  thiện giả thiện báo. Do bị áp bức và bóc lột, họ rất mong muốn  được  giải phóng, mong muốn mọi người ở hiền gặp lành và chính nghĩa  nhất định  sẽ thắng, đồng thời những kẻ bạc ác cuối cùng phải đền tội. 
 
Tiến trình phát triển của sự việc và của những tình tiết trong truyện   Lục Vân Tiên đã diễn ra theo đúng như cái nhìn lạc quan và niềm tin như   vậy của quần chúng. 
 
Hai nhân vật chính là Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga gặp bao nhiêu tai   nạn và trắc trở trên đường đời, nhưng cuối cùng họ đã vượt qua tất cả  để  đi đến hạnh phúc. 
 
Tóm lại, nhân dân lao động được phản ánh trong truyện Lục Vân Tiên với   tất cả đặc tính và phẩm chất, sức mạnh và niềm tin của họ. Đó chính là   một thành công tuyệt mỹ trong lịch sử văn học nước ta. Bởi vì trước   Nguyễn Đình Chiểu, ở nước ta chưa có một nhà văn nhà thơ nào, kể từ đại   thi hào Nguyễn Du cho đến các tác giả của những truyện nôm bình dân và   truyện nôm bác học, lại miêu tả được sâu sắc, đa dạng tính cách của  quần  chúng nhân dân như truyện thơ Lục Vân Tiên. Nếu trước Nguyễn Đình   Chiểu, hình ảnh và tính cách của quần chúng lao động mới xuất hiện một   cách lẻ loi thưa thớt, thì với tác phẩm Lục Vân Tiên quần chúng lao  động  được miêu tả một cách tập trung trên nhiều khía cạnh. Những đặc  tính và  phẩm chất của họ không chỉ biểu hiện ở một hoặc hai nhân vật mà  ở một  loạt các nhân vật như Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga, Hớn Minh,  Vương Tử  Trực, ông Ngư, ông Triều, ông Quán, Tiểu đồng... Điều đó chứng  tỏ rằng,  nhân dân lao động kể cả những người trí thức gắn bó với họ đã  từ cuộc  đời thực bước vào truyện thơ của Nguyễn Đình Chiểu như một lực  lượng xã  hội đông đảo, hùng hậu. Chính lực lượng xã hội này đã báo  trước tinh  thần kháng chiến anh dũng của nhân dân miền Nam khi thực dân  Pháp đặt  chân tới. Nhìn thấy sức mạnh của lực lượng xã hội này, đó  chính là một  cống hiến vô cùng quý giá của Nguyễn Đình Chiểu vào kho  tàng văn hóa của  dân tộc. 
 
Với một nội dung có tính nhân dân sâu sắc như vậy, với một hình thức   giản dị phù hợp với nếp suy nghĩ của quần chúng và với một ngôn ngữ   trong sáng được nâng cao từ tiếng nói thân thuộc hàng ngày của họ,   truyện Lục Vân Tiên đã được đông đảo quần chúng say mê ưa thích. Họ vô   cùng sung sướng và xúc động khi tìm thấy ở trong truyện những hình ảnh,   những tính cách giống vởi bản thân mình. Do đó mà các nhân vật trong   truyện sống mải trong tâm trí của đông đảo nhân dân qua bao nhiêu thế   hệ. Giá tri tuyệt vời của truyện Lục Vân Tiên chính là ở chỗ đó. 
 
Sở dĩ truyện Lục Vân Tiên có những giá trị tuyệt vời ấy và Nguyễn Đình   Chiểu thành công khi viết tác phẩm này, là vì ông có một sự hiểu biết   sâu rộng và nhiều mặt về đời sống của nhân dân nhất là đời sống của   người nông dân miền Đồng Nai, Gia Định. Ông không những thấy rõ nét mặt,   dáng điệu, cử chỉ, hành vi của họ mà còn hiểu được tâm tư, nguyện vọng   thầm kín của họ, hơn nữa có một lối nhìn và giải quyết vấn đề bắt  nguồn  từ tâm lý và niềm tin của họ. 
 
Nhưng không phải là ngẫu nhiên mà Nguyễn Đình Chiểu lại có được vốn hiểu   biết về nhân dân cũng như có một trái tim và lập trường đồng diệu với   nhân dân như thế. Chính cuộc sống của ông đã đưa lại cho ông tất cả   những thứ qúy giá ấy. Đó là một cuộc sống của nhân dân. 
 
Cuộc sống của Nguyễn Đình Chiểu bắt đầu từ một gia đình nhà nho nghèo mà   cha mẹ của ông có nhiều liên hệ và gắn bó thân thiết với nhân dân. Qua   sự giáo dục của người cha ngay thẳng và nhất là của người mẹ dịu hiền,   ông đã trực tiếp nhận được dòng sữa tinh thần của nhân dân để mở mang   đần trí óc của mình từ những ngày thơ bé. Khi tật đui mù và bao nhiêu   tai họa liên tiếp đến với ông, thì trong hoàn cảnh éo le và đau xót này,   nhân dân lao động như một bà mẹ hiền nâng ông dậy và dang rộng cánh  tay  ra đón nhận người con bất hạnh của mình. Từ đây cả cuộc đời của  Nguyễn  Đình Chiểu, từ việc ăn ở cho đến việc lấy vợ sinh con, từ công  việc làm  thuốc, dạy học cho đến việc sáng tác thơ ca, đều điều hành  trong sự giúp  đỡ, cứu mang, đùm bọc và trìu mến của nhân dân. Nghề dạy  học và bốc  thuốc giúp ông sinh sống nhưng cũng lại tăng thêm sự giao  tiếp của ông  với các từng lớp người trong xã hội. Nhờ đó mà tri thức  của ông được  nhân lên gấp bội và ông có đầy đủ những vốn liếng cần  thiết để sáng tạo  nên những hình tượng bất hủ trong truyện Lục Vân  Tiên. 
 
II 
 
Nguồn gốc của sự nhận thức về cuộc kháng chiến cứu nước và vai trò của nhân dân trong cuộc kháng chiến đó. 
 
Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, Nguyễn Đình Chiểu bước vào cuộc   kháng chiến cứu nước, cũng với cách nhìn nhận sự việc lành mạnh và dứt   khoát như ông đã thể hiện trong truyện thơ Lục Vân Tiên. Trong những giờ   phút thứ thách này của lịch sử, nhận thức và lập trường của ông đã  đứng  vững, phát triển và vươn tới đỉnh cao của thời đại.  
 
Trước hết sự nhìn nhận của ông về cuộc kháng chiến cứu nước thấm đượm   một chủ nghĩa yêu nước thiết tha sôi nổi. Đó là chủ nghĩa yêu nước được   xây dựng trên nền tảng của lòng thương dân vô hạn, một lòng thương dân   đã hình thành trong suốt cuộc đời gần gũi và gắn bó của ông với nhân   dân. Đây không phải là lòng thương dân của những người trí thức qúy tộc   có thiện ý nghiêng mình xuống thông cảm với quần chúng nghèo khổ ở phía   dưới, mà thực sự là lòng thương dân của một người trí thức cùng cảnh   ngộ, cùng lập trường và quan điểm với nhân dân. 
 
Càng thương dân, Nguyễn Đình Chiểu càng yêu nước da diết, càng đau xót   khi giặc Pháp dày xéo lên mảnh đất quê hương, tàn phá xóm làng và gây ra   bao cảnh đau thương tang tóc cho nhân dân:  
 
Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây 
Một bàn cờ thế phút sa tay 
Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy 
Mất ổ bày chim dáo dát bay  
Bến Nghé cửa tiền tan bọt nước  
Đồng Nai tranh ngói nhuộm mầu mây  
 
Ở Nguyễn Đình Chiểu lòng yêu nước thương dân luôn luôn gắn liền với lòng   căm thù địch sâu sắc và thái độ kiên quyết đánh giặc. Là người trí  thức  thông cảm với mọi nỗi đau khổ của nhân dân trong chiến tranh,  Nguyễn  Đình Chiểu càng thấy rô những tội ác "trời không dung đất không  tha" của  bọn thực dân Pháp. Có thể nói, ngay từ khi chúng đặt bàn chán  xâm lược  lên miền Nam của đất nước ta, thì những hành động khủng bố dã  man, cướp  bóc trắng trợn, đầu độc thâm hiểm của chúng đã bị Nguyễn Đình  Chiểu lên  án một cách nghiêm khắc, quyết liệt. Đây là lần đầu tiên  trong lịch sử,  một kẻ thù mới mẻ của dân tộc ta bị tố cáo với những  bằng chứng xác  thực. Chỉ riêng điểm đó cững đủ chứng tỏ nhận thức của  Nguyễn Đình Chiểu  vượt xa các sĩ phu đương thời, nhất là các sĩ phu nắm  quyền trong triều  Nguyễn. Đối với ông, không thể có một sự chung sống  yên ổn hoặc một sự  nghị hòa vô nguyên tắc nào giữa bọn giặc nước và  nhân dân ta đang lâm  vào cảnh nước mất nhà tan. Ông nhấn mạnh rằng:  
 
Trời Đông mà gió Tây qua  
Hai hơi ấm mát chẳng hòa đau dân. 
 
Đứng trước mối mâu thuẫn gay gắt ấy, thái độ của Nguyễn Đình Chiểu là   kiên quyết đứng về phía nhân dân, đứng trên lập trường bảo vệ độc lập   của tổ quốc để chống lại bọn thực dân xâm lược. Theo ông, việc nhân dân   cầm vũ khí chống giặc để bảo vệ quê hương, làng xóm là một điều tất   nhiên hợp với đạo lý. Bởi vì trước mắt người dân mất nước chỉ còn một   con đường sống là nắm chắc "cây thương phá Lỗ" và "giáo tre ngàn dặm   đánh Tây". 
 
Là người biểu dương đường lối võ trang chiến đấu ấy, Nguyễn Đình Chiểu   đã tán thành chủ trương nghịch mệnh triều đình và đi với nhân dân để   chống giặc của Trương Định. Ông nhận thấy rằng, trong cuộc kháng chiến   này, lòng dân, ý chí chiến đấu cho độc lập dân tộc của nhân dân là tiếng   gọi thiêng liêng nhất đối với người chiến sĩ ngoài mặt trận kể cả  những  thủ lĩnh của họ. Đó là lập trường đúng đắn của Nguyễn Đình Chiểu  về  cuộc kháng chiến cứu nước. Lập trường ấy của ông không hề dao động,  mặc  dù trong chiến đấu có thể gặp nhiều tổn thất, thậm chí phải hy sinh  cả  tính mệnh.  
 
Nguyễn Đình Chiểu tin tưởng một cách sâu sắc rằng sự nghiệp kháng chiến   cứu nước của dân tộc ta là một sự nghiệp “chí nhân đại nghĩa" hoàn toàn   phù hợp với lẽ phải và lương tầm của con người, cho nên cuối cùng sẽ   giành được thắng lợi. Vì thế ông khao khát trông đợi ngày giải phóng   nhân dân khỏi nanh vuốt của quân thù như "hoa cỏ ngùi ngùi ngóng gió   Đông". Và ngay trong những ngày đen tối nhất của lịch sử, khi mà quân   thù đã chiếm cứ nhiều vùng đất đai của tổ quốc, ông vẫn còn thiết tha hy   vọng:  
 
"Ngày nào trời đất an ngôi cũ 
Mừng thấy non sông bắt gió Tây 
 
Niềm tin và hy vọng của Nguyễn Đình Chiểu ở đây tuy chưa phản ánh được   quy luật khách quan của cuộc chiến tranh chống đế quốc nhằm bảo vệ độc   lập dân tộc của nước ta hồi cuối thế kỷ XIX, nhưng rõ ràng đó là niềm   chân thành và lành mạnh của quần chúng. Nó có tác dụng cổ vũ tinh thần   chiến đấu của nhân dân ta lúc đương thời. 
 
Nhưng điểm thành công nhất trong sự nhận thức của Nguyễn Đình Chiểu   chính là ở chỗ ông đá nhìn thấy sức mạnh của nhân dân trong cuộc kháng   chiến cứu nước. Ông đã giành những áng thơ văn hùng hồn sôi nổi và chói   lọi nhất để nói về những chiến sĩ vốn là những người nghèo khổ lam lũ   xuất thân từ "dân ấp dân lân". Ông diễn tả và ngợi ca một cách đầy nhiệt   tình tinh thần anh dũng và tư thế lẫm liệt của họ trên chiến trường.   Dưới con mắt của ông, những nông dân nghèo khổ ấy không phải chỉ là   những người đáng yêu, những người ủng hộ và tham gia kháng chiến, mà còn   là động lực chủ yếu của công cuộc cứu nước và là những chiến sĩ kiên   cường nhất trong chiến đấu. Có thể nói, quan điểm nhân dân, nhất là quan   điểm về vai trò của nhân dân trong chiến tranh cứu nước ở Nguyễn Đình   Chiểu đã đạt tới một đỉnh cao. Bởi vì các thế hệ trước và đương thời   nhiều lắm cũng mới chỉ nhận thấy nhân dân là lực lượng hậu thuẫn và là   một thành phần tham gia vào cuộc chiến tranh đó. 
 
Tóm lại, sự nhìn nhận của Nguyễn Đình Chiểu về cuộc kháng chiến cứu nước   của dân tộc ta hồi cuối thế kỷ XIX, tuy không tránh khỏi những hạn chế   của lịch sử, nhưng đó là một sự nhìn nhận tiến bộ. Nó đã thực cự góp   phần thúc đẩy và nâng cao sự nhận thức của người đương thời về những vấn   đề cấp bách của sự nghiệp cứu nước. 
 
Sự nhìn nhận đó của Nguyễn Đình Chiểu cững là sự tiếp tục và phát triển   thêm một bước những nhận thức của ông đã thể hiện trong tác phẩm Lục  Vân  Tiên về những quan hệ xã hội và nhân cách của con người, cũng như  về  sức mạnh và phẩm chất cao đẹp của nhân dân. Nhưng khi thực dân Pháp  xâm  lược nước ta, với quan điểm lập trường nhân dân và với lòng yêu  nước  thương dân vô hạn, ông đã nêu lên được những kiến giải tích cực về  ý  nghĩa và mục tiêu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Nhất là ông cũng  thấy  rõ vai trò quan trọng và khí phách anh hùng của nhân dân trong cơn  thử  thách ác liệt của chiến tranh. 
 
Chỉnh trong cơn thử thách này của lịch sử, quan điểm và lập trường nhân   dân của Nguyễn Đình Chiểu được củng cố. Ông càng gắn bó với nhân dân,   càng chung vai sát cánh với nhân dân trong cuộc chiến đấu chống Pháp.   Ông đã cùng nhân dân chạy giặc cùng nhân dân kháng chiến. Ông không   những chống giặc bằng ngòi bút mà còn liên lạc với đốc binh Là, với   Trương Định và tham gia vào những hoạt động trong chiến đấu của nhân   dân. Nỗi thống khổ của nhân dân trong cơn binh lửa, cũng như bước tiến   quân và tiếng kèn xung trận của nghĩa quân luôn luôn vang động trong   trái tim và khối óc của Nguyễn Đình Chiểu. Cuộc chiến đấu oanh liệt của   nhân dân đã đem vào trong tư tưởng của ông có khi thế mạnh mẽ, cái sức   sống quật cường của một dân tộc trong lúc hiểm nghèo. Như vậy là do gắn   mình với cuộc chiến đấu của nhân dân và kiên định lập trường nhân dân  mà  Nguyễn Đình Chiểu đã tự xác định cho mình một thái độ đúng đắn, một   tình cảm trong sắng, một nhận thức tương đối chính xác về cuộc đấu  tranh  chống xâm lược ở nước ta lúc đương thời. 
 
III 
 
Quan điểm và lập trường vận dụng các khái niệm của Nho giáo. 
 
Nguyễn Đình Chiểu xuất thân từ một gia đình nhà Nho và được đào tạo dưới   môi trường Nho học. Ông lại sống dưới chế độ phong kiến triều Nguyẫn,   một triều đại tôn sùng Nho giáo đến tột mức. Trong tình hình ấy, Nguyễn   Đình Chiểu không thể tránh khỏi sự ràng buộc của hệ tư tưởng Nho giáo,   càng không thể không vận dụng các khái niệm của Nho giáo để diễn đạt  tư  tưởng của mình. Nhưng điều đáng lưu ý là ông đã đưa một nội dung đầy   tính nhân dân và dân tộc vào trong các khái niệm của Nho giáo. Vì thế  mà  ở ông những khái niệm đó mất dần những yếu tố tiêu cực và hấp thụ  được  thêm nhiều yếu tố tích cực có ích cho nhân dân trong cuộc sống lao  động  và chiến đấu bào vệ tổ quốc.  
 
Đối với Nguyễn Đình Chiểu, khái niệm nhân nghĩa biểu thị một lòng thương   người mênh mông sâu thẳm như đại dương. Mà lòng thương người của  Nguyễn  Đình Chiểu trước hết là thương dân, nhất là dân nghèo khổ, là  thương  những người dân lương thiện mà lại bất hạnh và bị chà đạp. Đến  những  người ăn mày là những người cùng cực nhất của xã hội không ở  ngoài lòng  nhân ái của ông: 
 
Đứa ăn mày cũng trời sinh 
Bệnh còn cứu đặng thuốc dành cho không 
 
Nguyễn Đình Chiểu còn đặc biệt dành một tình thương sâu sắc cho những   người có tài đức, có khi tiết trong sạch nhưng lại không được triều đình   trọng dụng, hoặc bị oan uổng hay gặp tai nạn. Đó là trường hợp của các   nhân vật lịch sử như Nguyên Lượng, Nhan Uyên, Hàn Dũ... hoặc những  nhân  vật mà ông sáng tạo ra trong truyện thơ của mình như Vân Tiên,  Nguyệt  Nga, Kỳ Nhân Sư... Còn khái niệm "nghĩa" của nho giáo khi được  Nguyễn  Đình Chiểu vận dụng lại càng có những thay đổi lớn về mặt nội  dung, càng  thể hiện những giá trị đạo đức đầy sức sống trong quan hệ  phong phú  giữa nhân dân lao động. Các nhân vật chính diện của Nguyễn  Đình Chiểu từ  Nguyệt Nga, Vân Tiên đến Hớn Minh, Tiểu đồng... đều là  những con người  hành động vì nghĩa một cách tự giác và đầy nhiệt tình. 
 
Nhìn một cách tổng quát, khái niệm nhân nghĩa do Nguyễn Đình Chiểu vận   dụng vì gắn liền với những yêu cầu của nhân dân và của thời đại, cho nên   nó đặc biệt được ông nhấn mạnh trên hai ý nghĩa cơ bản: một là nhân   nghĩa phải biểu hiện thành việc làm điều thiện nhằm cứu giúp người khác   ra khỏi khó khăn, hoặc bảo vệ hạnh phúc của người khác trong cơn nguy   biến. Hai là nhân nghĩa phải góp phần duy trì sự hòa thuận êm đẹp trong   gia đình và bảo vệ cuộc sống yên vui trong độc lập và tự do của đất   nước, trước hết là bảo vệ tổ quốc khi có giặc ngoại xâm. Cho nên: 
 
Mến nghĩa bao đành làm phản nước  
Có nhân nào nỡ phụ tình nhà 
 
Ngoài khái niệm nhân nghĩa, Nguyễn Đình Chiểu còn đề cập đến nhiều khái   niệm khác của Nho giáo như “trung hiếu”, “tiết hạnh”. Ông quan niệm  rằng  đạo trung quân là cần thiết cho mọi người. Nhưng ông đòi hỏi một  ông  vua được mọi người tôn thờ phải là ông vua hiền tài thương dân yêu  nước.  Ông vua ấy phải tượng trưng cho hạnh phúc của nhân dân và nền độc  lập  tự chủ của đất nước.  
 
Ở Nguyễn Đình Chiểu, khái niệm trung thường gắn với khái niệm hiếu.   Nhưng qua sự vận dụng của ông, khái niệm hiếu của Nho giáo cũng do ông   nhắc và trở nên gần gũi với nhân dân hơn. Hiếu ở ông là lòng biết ơn,   tốn kính cha mẹ, là trách nhiệm trông nom săn sóc cha mẹ với tất cả tình   cảm sâu nặng của người con. 
 
Sự vận dụng mấy khái niệm Nho giáo trên đây ở Nguyễn Đình Chiểu cũng đủ   chứng minh rằng, ngay khi Nho giáo đã lỗi thời, một người trí thức đứng   trên quan điểm và lập trường nhân dân vẫn có khả năng đưa vào những  khái  niệm của Nho giáo những giá trị cao đẹp vốn nảy sinh trong cuộc  sống  của đông đảo quần chúng lao động. 
 
Ngày nay, đọc lại những tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu, chúng ta hết sức   trân trọng những thành công mà ông đã đạt được nhưng cũng cảm thấy một   cách thấm thía rằng, chính những thành cũng đó, chính những giá trị  cao  đẹp trong thơ văn của ông có liên hệ mật thiết với quan điểm lập  trường  nhân dân và lòng yêu nước thương dân vô hạn của ông, nhất là có  liên hệ  cuộc đời gắn bó với nhân dân của ông. Mối liên hệ đó là một bài  học vô  cùng quý giá về sự thành công của người trí thức, mọt bài học  đến bây  giờ vẫn còn nóng hổi và có ý nghĩa thời sự. 
 
 |  
  
 
		
		
		
 
  
 | 
 |